Không thể tiến hành thẩm định tại chỗ?

Thông tin tới Báo Thanh tra vào ngày 22/5/2021, ông Vương Giác Thắng (đại diện hợp pháp của nguyên đơn Huỳnh Văn Lợi) cho biết, kể từ khi TAND huyện Tân Phú thụ lý vụ án đến nay, nhiều lần thẩm phán ra quyết định xem xét thẩm định tại chỗ để giải quyết vụ án. Tuy nhiên, đã 4 lần thẩm định đều không thành do thái độ bất hợp tác từ phía các bị đơn.

Ông Vương Giác Thắng cho rằng, việc để vụ án kéo dài hơn 11 năm vẫn chưa đưa ra xét xử là không đúng với quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử tại Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) năm 2015, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Huỳnh Văn Lợi.

Ngày 19/1/2021, TAND huyện Tân Phú có Công văn số 20/CV-TAH gửi UBND tỉnh Đồng Nai đề nghị cung cấp các tài liệu, chứng cứ gồm: Toàn bộ hồ sơ thu hồi 305.952m2 đất tại xã Trà Cổ, huyện Tân Phú, theo Quyết định số 1318/QĐ.CT.UBT ngày 29/4/2002 của UBND tỉnh Đồng Nai. Về việc chấp thuận cho Công ty TNHH Phú Lạc thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho công ty để sử dụng vào mục đích xây dựng khu du lịch sinh thái tại xã Trà Cổ; toàn bộ hồ sơ thu hồi 14.738m2 đất tại xã Trà Cổ, theo Quyết định số 1292/QĐ.CT.UBT ngày 5/5/2003 của UBND tỉnh Đồng Nai về việc giao quyền sử dụng đất cho Ban Quản lý dự án huyện Tân Phú để đầu tư xây dựng đường vào Khu du lịch Suối Mơ tại xã Trà Cổ.

Đồng thời, TAND huyện Tân Phú đề nghị UBND tỉnh Đồng Nai, thửa đất số 138 tờ bản đồ số 19 bản đồ địa chính xã Trà Cổ lập năm 1998 (trước là thửa 373 tờ bản đồ số 4 bộ bản đồ địa chính xã Phú Lộc cũ lập năm 1989) và thửa 132 và thửa 94 tờ bản đồ 19 địa chính xã Trà Cổ thành lập năm 2002 (trước là thửa 370, 324 tờ bản đồ 13) có bị thu hồi để làm khu du lịch Suối Mơ theo các quyết định nêu trên của UBND tỉnh Đồng Nai hay không? Thu hồi hết hay thu hồi một phần? Nếu thu hồi một phần thì diện tích bị thu hồi là bao nhiêu?

Trước đó, ngày 1/12/2020, TAND huyện Tân Phú cùng các cơ quan, cá nhân liên quan đã tổ chức xem xét, thẩm định tại chỗ và đo vẽ hiện trạng thửa đất tranh chấp nhưng bất thành.

Hơn 1 thập kỷ khiếu kiện đòi quyền lợi

Theo hồ sơ, năm 1997 ông Huỳnh Văn Lợi được UBND huyện Tân Phú cấp GCNQSDĐ đối với diện tích đất 3.490m2 đất tại 2 thửa, gồm thửa số 721, diện tích 1.970m2 và thửa số 373, diện tích 1.520m2, cùng tờ bản đồ số 4 xã Trà Cổ (đất tọa lạc tại ấp 6, xã Trà Cổ, huyện Tân Phú).

Nguồn gốc đất này do cha mẹ ông Lợi cho. Khi thu hồi đất của các hộ dân giao cho Công ty Phú Lạc để xây dựng Khu du lịch Suối Mơ, Công ty Phú Lạc đã xây bờ tường bằng đá ong cặp dài theo ranh thửa đất số 324 và 372. Do đó, thửa đất của ông Lợi bị chia thành 2 phần, bên trong và bên ngoài bờ tường đá. Phần đất bên trong bờ đá, ngày 12/1/2010 UBND huyện Tân Phú tiến hành cưỡng chế giao cho Công ty Phú Lạc sử dụng. Phần còn lại có diện tích khoảng 300m2 nằm ở phía ngoài tường rào có tứ cận: Đông giáp bờ tường rào của Công ty Phú Lạc, Tây giáp thửa đất của bà Dương Thị Tr. tại thửa 370, Nam giáp đất của ông Nguyễn Việt T.A. (thửa 372), Bắc giáp đường nhựa.

Việc tranh chấp, khiếu kiện giữa ông Huỳnh Văn Lợi với bà Dương Thị Tr. và ông Nguyễn Việt T.A. phát sinh từ đầu năm 2010.

leftcenterrightdel

TAND huyện Tân Phú cho rằng cần đợi kết quả cung cấp chứng cứ của UBND tỉnh Đồng Nai mới giải quyết được vụ án. Ảnh: PV

Ngày 22/4/2010, TAND huyện Tân Phú đã thụ lý vụ án dân sự số 29/2010/TLST-DS về việc “kiện tranh chấp quyền sử dụng đất”. Người khởi kiện là ông Huỳnh Văn Lợi, bị đơn là bà Dương Thị Tr., trú tại khu 2, thị trấn Tân Phú, huyện Tân Phú.

Ngày 30/8/2012, TAND huyện Tân Phú tiếp tục thụ lý vụ án dân sự số 94/2012/TLST-DS về “tranh chấp quyền sử dụng đất”. Trong vụ án này, nguyên đơn Huỳnh Văn Lợi yêu cầu ông Nguyễn Việt T.A. (trú tại ấp 6, xã Trà Cổ, huyện Tân Phú) phải trả lại phần diện tích đất khoảng 300m2 thuộc thửa số 373, tờ bản đồ số 4, bản đồ địa chính xã Trà Cổ.

Đến ngày 20/10/2014, TAND huyện Tân Phú ban hành Quyết định số 02/2014/QĐST-DS với nội dung nhập vụ án số 29/2010/TLST-DS thụ lý ngày 22/4/2010 vào vụ án số 94/2012/TLST-DS thụ lý ngày 30/8/2012 để giải quyết trong cùng một vụ án.

Trong thời gian xảy ra tranh chấp, ông Vương Giác Thắng phát hiện ông Nguyễn Việt T.A. làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (đang tranh chấp) cho ông Nguyễn Văn B. và bà Nguyễn Thị N., là cha mẹ của anh Nguyễn Việt T.A. nên đã khởi kiện bổ sung. Đồng thời, yêu cầu TAND huyện Tân Phú tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và tuyên bố hủy bỏ GCNQSDĐ đứng tên Nguyễn Văn B. và Nguyễn Thị N. Sự việc được TAND huyện Tân Phú thụ lý bổ sung số 94a ngày 20/4/2018.

Vụ án kéo dài đến bao giờ?

Ngày 8/2/2021, TAND huyện Tân Phú ra Quyết định số 06/2021/QĐST-DS, tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thụ lý số 94/2012/TLST-DS ngày 30/8/2012 về việc “tranh chấp QSDĐ; yêu cầu hủy GCNQSDĐ; tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu” giữa nguyên đơn Huỳnh Văn Lợi và các bị đơn Nguyễn Việt T.A., Dương Thị Tr. vì xét thấy cần đợi kết quả cung cấp chứng cứ của UBND tỉnh theo yêu cầu của tòa án mới giải quyết được vụ án.

Tính từ ngày thụ lý (22/4/2010), vụ kiện liên quan đến QSDĐ của nguyên đơn Huỳnh Văn Lợi đã kéo dài hơn 11 năm và 2 lần tạm đình chỉ, TAND huyện Tân Phú vẫn chưa đưa ra xét xử. Ông Vương Giác Thắng (đại diện hợp pháp của nguyên đơn Huỳnh Văn Lợi) đã làm đơn khiếu nại gửi TAND tỉnh Đồng Nai, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh và các cơ quan chức năng. Ông Thắng cho biết, trong quá trình theo đuổi vụ kiện, bản thân ông đã nhiều lần bị đe dọa, xúc phạm.

Cũng theo ông Vương Giác Thắng, TAND huyện Tân Phú và các cơ quan có thẩm quyền cần kiên quyết xử lý đối với các hành vi không hợp tác, ngăn cản, chống đối trong quá trình tiến hành thẩm định tại chỗ đối với tài sản tranh chấp, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

Trả lời Báo Thanh tra, luật sư Tôn Đức Tân (Trưởng Văn phòng Luật sư Đức Tân, Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh) cho rằng, đối với vụ án này, theo quy định tại BLTTDS năm 2015 thì thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án là 4 tháng kể từ ngày thụ lí vụ án và có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 2 tháng nếu có căn cứ. Như vậy, tổng thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự về quan hệ tranh chấp nêu trên là không quá 6 tháng kể từ ngày có quyết định thụ lí vụ án của tòa án. Trong trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của tòa án có hiệu lực pháp luật (căn cứ khoản 1 Điều 203 BLTTDS 2015).

Nhóm PV