Định vị kịch bản phát triển

Lần đầu tiên, Việt Nam xây dựng Quy hoạch Tổng thể quốc gia 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo phương pháp tích hợp của Luật Quy hoạch năm 2017.

Quy hoạch Tổng thể quốc gia được được coi là quy hoạch “gốc”, không chỉ định ra các kịch bản phát triển trong 10, 30 năm tới, mà còn là cơ sở để lập quy hoạch không gian biển, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn trên phạm vi cả nước.

“Đây là một công trình nghiên cứu hết sức đồ sộ, công phu, nghiêm túc, khoa học, 41 hợp phần, gần 7.000 trang tài liệu, với gần 30 cơ sở viện, trường nghiên cứu tham gia với khoảng hơn 100 nhà khoa học, chuyên gia hàng đầu trong nước và quốc tế về quy hoạch tham gia”, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho hay.

Để Quốc hội yên tâm bấm nút biểu quyết thông qua nghị quyết về bản quy hoạch này, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định, phương pháp tiếp cận “hết sức mới, hiện đại, đảm bảo các thông lệ tốt của quốc tế, phù hợp với các xu thế vận động, xu hướng mới hiện nay, cũng như các nghị quyết của Trung ương Đảng về các vùng, các địa phương, các ngành và lĩnh vực đã ban hành”.

Theo Nghị quyết về Quy hoạch Tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp bất thường lần 2, Việt Nam phấn đấu năm 2030 là “nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao”.

Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt khoảng 7%/năm trong 2021-2030. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD.

Tỷ trọng trong GDP của khu vực dịch vụ đạt trên 50%, khu vực công nghiệp - xây dựng trên 40%, khu vực nông, lâm, thủy sản dưới 10%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5% một năm. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt trên 50%.

Kinh tế tăng trưởng giai đoạn này dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; tỷ lệ đô thị hoá đạt hơn 50%; có 3-5 đô thị ngang tầm khu vực, quốc tế.

Đến năm 2050, Việt Nam phấn đấu sẽ là “nước phát triển, thu nhập cao”. Nền kinh tế vận hành theo phương thức của kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực tăng trưởng chủ yếu.

Việt Nam thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á; là một trung tâm tài chính khu vực và quốc tế; trở thành quốc gia biển mạnh, một trung tâm kinh tế biển của khu vực châu Á - Thái Bình Dương...

Ở giai đoạn này, dự báo tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 6,5-7,5% một năm. Đến năm 2050, GDP bình quân đầu người khoảng 27.000-32.000 USD; tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2050 đạt 70-75%. Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt từ 0,8 trở lên, đời sống của người dân hạnh phúc; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc.

“Khi Quốc hội thông qua Quy hoạch Tổng thể quốc gia thì chúng ta mới hình dung được bản thiết kế, lộ trình và các bước đi để phân công nhiệm vụ, phối hợp thực hiện đồng bộ để khai thác tối đa các nguồn lực của đất nước”, đại biểu Quốc hội Trần Văn Lâm (đoàn Bắc Giang) trao đổi với báo chí.

Không chỉ thế, theo đại biểu Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp) khi có bản Quy hoạch Tổng thể quốc gia sẽ góp phần khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác quy hoạch lâu nay. Đó là, tình trạng tổ chức không gian phát triển bị chia cắt theo địa giới hành chính, chưa tập trung nguồn lực để hình thành rõ nét các vùng động lực và bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia.

Kiến tạo các không gian phát triển và động lực tăng trưởng mới

Quy hoạch Tổng thể quốc gia 2021-2030, tầm nhìn 2050 định hướng tổ chức không gian phát triển đất nước thành 6 vùng kinh tế xã hội; 4 vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia, và các hành lang kinh tế.

Theo đó, 6 vùng kinh tế xã hội, gồm: Vùng trung du và miền núi phía Bắc (14 tỉnh, TP); Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung (14 tỉnh, TP); Vùng Tây Nguyên (5 tỉnh); Vùng Đông Nam Bộ (6 tỉnh, TP) và Vùng đồng bằng sông Cửu Long (13 tỉnh, TP).

leftcenterrightdel
 Đại biểu Quốc hội bấm nút biểu quyết thông qua nghị quyết về Quy hoạch Tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ảnh: Đ.X

4 vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia, gồm: vùng động lực phía Bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh); vùng động lực phía Nam (TP HCM - Bình Dương - Đồng Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu); vùng động lực miền Trung (khu vực ven biển Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam - Quảng Ngãi); vùng động lực Đồng bằng sông Cửu Long.

Các cực tăng trưởng tương ứng của mỗi vùng là Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ.

Về hành lang kinh tế, tới năm 2030, Việt Nam sẽ phát triển hành lang kinh tế Bắc - Nam trên cơ sở trục giao thông Bắc - Nam phía Đông; hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; hành lang kinh tế Mộc Bài - TP HCM - Biên Hoà - Vũng Tàu

Trong dài hạn, Việt Nam sẽ từng bước hình thành hành lang kinh tế Tây Nguyên - Đông Nam Bộ nhằm thúc đẩy phát triển, liên kết vùng, gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh.

Từng bước hình thành 6 hàng lang kinh tế Đông - Tây gồm: Điện Biên - Sơn La - Hòa Bình - Hà Nội, Cầu Treo -Vũng Áng, Lao Bảo - Đông Hà - Đà Nẵng, Cửa khẩu Bờ Y - Pleiku - Quy Nhơn, Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, Hà Tiên - Rạch Giá - Cà Mau.

Bản quy hoạch này cũng đưa ra định hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia. Trong đó, xây dựng, phát triển Thủ đô Hà Nội, TP HCM và các TP trực thuộc Trung ương trở thành các đô thị năng động, sáng tạo, dẫn dắt và tạo hiệu ứng lan tỏa, liên kết vùng đô thị; đủ sức cạnh tranh, hội nhập khu vực và quốc tế, có vai trò quan trọng trong mạng lưới đô thị của khu vực Đông Nam Á, châu Á.

Các đô thị được ưu tiên phát triển gắn với các hành lang kinh tế để trở thành các đô thị trung tâm phù hợp với chức năng của từng vùng, thúc đẩy lan tỏa phát triển. Phát triển các đô thị vệ tinh của một số đô thị lớn, nhất là Thủ đô Hà Nội, TP HCM.

Thực hiện Quy hoạch Tổng thể quốc gia, dự kiến nhu cầu vốn đầu tư khoảng 48,3 triệu tỷ đồng, với nguồn huy động sẽ từ: nguồn ngân sách, tư nhân và vay nước ngoài, trong đó vốn đầu tư công khoảng 6,78 triệu tỷ đồng.

“Đây là con số rất lớn”, đại biểu Nguyễn Quốc Luận (Yên Bái) nói và cho rằng, Chính phủ cần tiếp tục rà soát, đánh giá lại các chương trình, dự án để đảm bảo dự báo đúng, sát nhu cầu về nguồn lực, từ đó có những giải pháp chiến lược, căn cơ, bài bản, khả thi để huy động nguồn lực cho đầu tư, đặc biệt là nguồn đầu tư từ khu vực kinh tế ngoài Nhà nước.

Trong phát biểu bế mạc kỳ họp bất thường lần 2, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đặc biệt nhấn mạnh, trong năm 2023, cần đổi mới tư duy, có cách tiếp cận mới, phương pháp và giải pháp mới, tích cực, chủ động, sáng tạo và quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành; vừa tập trung khắc phục, hóa giải thành công khó khăn, thách thức, thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách.

“Cần tăng cường hoàn thiện thể chế phát triển, tập trung tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ sản xuất kinh doanh kịp thời cho người dân, doanh nghiệp, kiến tạo các không gian phát triển và động lực tăng trưởng mới”, Chủ tịch Quốc hội nói.

Định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực

Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghệ số, công nghệ mới, công nghiệp công nghệ cao. Phát triển các ngành công nghiệp xanh gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên.

Về dịch vụ, xây dựng các trung tâm thương mại, tài chính... mang tầm khu vực và thế giới tại các TP lớn gắn với phát triển các vùng động lực và hành lang kinh tế. Hình thành các trung tâm logistics quy mô, hiện đại gắn với các cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế lớn.

Phát triển nông nghiệp hiện đại theo chuỗi giá trị, cụm liên kết ngành, gắn với công nghiệp chế biến và phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn; thực hiện chuyển đổi số, sản xuất nông nghiệp thông minh.

Với các ngành hạ tầng xã hội: ưu tiên đầu tư các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao, tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới tại các TP lớn và các vùng động lực. Xây dựng các cơ sở văn hóa quốc gia trở thành những thương hiệu mạnh, có sức cạnh tranh. 

Hương Giang