Biện pháp CBPG được Bộ Công thương gia hạn thêm 05 năm kể từ ngày 26/10/2019 với mức thuế CBPG cụ thể như sau:

STT

Tên nhà sản xuất/xuất khẩu

Tên công ty thương mại

Thuế chống bán phá giá (có hiệu lực áp dụng 05 năm kể từ ngày 26/10/2019)[1]

Cột 1

Cột 2

Cột 3

TRUNG QUỐC

11

Shanxi Taigang Stainless Steel Co., Ltd.

Tisco Stainless Steel (H.K.) Limited

17,94%

22

Các nhà sản xuất/xuất khẩu khác

31,85%

MALAYSIA

33

Bahru Stainless Sdn.Bhd

Acerinox SC Malaysia Sdn. Bhd

11,09%

44

Các nhà sản xuất/xuất khẩu khác

22,69%

INDONESIA

55

PT. Jindal Stainless Indonesia

10,91%

66

Các nhà sản xuất/xuất khẩu khác

25,06%

VÙNG LÃNH THỔ ĐÀI LOAN

77

Tất cả các nhà sản xuất/xuất khẩu

37,29%

Bộ Công Thương bắt đầu tiến hành rà soát cuối kỳ vào tháng 10/2018 theo quy định của Luật Quản lý Ngoại thương và Hồ sơ đề nghị rà soát của đại diện ngành sản xuất trong nước. Việc điều tra được thực hiện theo đúng quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Luật Quản lý ngoại thương và các quy định liên quan.

Kết quả điều tra cho thấy, sau 05 năm áp dụng biện pháp CBPG (từ tháng 10/2014) đến nay, ngành sản xuất trong nước đã dần khắc phục được thiệt hại đáng kể trước đó nhưng mức tăng trưởng không ổn định và có chiều hướng chững hoặc suy giảm nhẹ, thể hiện ở một số yếu tố như sau:

Công suất sử dụng dần hồi phục và tương đối ổn định, tuy nhiên mức cao nhất đến nay mới đạt 69,4%.

Sản lượng dần hồi phục và liên tục tăng trưởng so với thời điểm áp thuế. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng đang giảm dần và chỉ tăng 1% trong giai đoạn rà soát cuối kỳ (2018-2019).

Lượng bán hàng của ngành sản xuất trong nước so với giai đoạn bắt đầu áp dụng biện pháp CBPG tăng trưởng tương đối tốt nhưng đang có dấu hiệu giảm dần. Trong giai đoạn rà soát cuối kỳ, tổng lượng bán hàng trong nước của ngành sản xuất trong nước giảm 5% và tổng lượng bán hàng của ngành sản xuất trong nước giảm 1% so với giai đoạn trước đó.

Thị phần của ngành sản xuất trong nước sau khi áp dụng biện pháp CBPG chính thức bắt đầu tăng, tuy nhiên đến giai đoạn rà soát cuối kỳ giảm, giữ ở mức 42,8%, trong khi thị phần hàng nhập khẩu là 57,2%.

Sau khi áp dụng biện pháp CBPG, doanh thu của ngành sản xuất trong nước có xu hướng tăng trưởng tích cực nhưng đang chững lại và đến giai đoạn rà soát cuối kỳ tăng trưởng doanh thu chỉ còn 4,69%. Xét về lợi nhuận, ngành sản xuất trong nước có lãi trong giai đoạn rà soát cuối kỳ với tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu ở mức rất thấp là 0,64%.

Căn cứ trên các số liệu thực tiễn của doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu nước ngoài, kết quả điều tra cho thấy vẫn còn tồn tại hành vi bán phá giá của các doanh nghiệp với biên độ bán phá giá cụ thể như trên.

Quá trình rà soát tuân thủ các quy định bắt buộc theo quy định của Hiệp định CBPG của WTO, Luật Quản lý ngoại thương và các quy định liên quan. Cụ thể kết luận điều tra xác định tồn tại đủ 3 yếu tố: Tồn tại khả năng hàng nhập khẩu từ các nước/vùng lãnh thổ trên tiếp tục/tái diễn bán phá giá nếu chấm dứt biện pháp; Ngành sản xuất trong nước có thể bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe dọa gây thiệt hại đáng kể nếu chấm dứt biện pháp CBPG và có mối quan hệ nhân quả giữa việc ngành sản xuất trong nước có thể bị thiệt hại đáng kể/đe dọa bị thiệt hại đáng kể với việc tiếp tục/tái diễn hành vi bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu.

Trên cơ sở kết quả điều tra, thực hiện quy định của WTO, Luật Quản lý ngoại thương và các quy định liên quan, Bộ Công Thương đã ban hành quyết định gia hạn việc áp dụng biện pháp CBPG đối với sản phẩm thép không gỉ nêu trên.

Biện pháp CBPG sẽ có hiệu lực 05 năm kể từ ngày 26/10/2019. Hàng năm, các bên liên quan có thể nộp hồ sơ yêu cầu Bộ Công Thương tiến hành điều tra, rà soát lại về vấn đề phạm vi sản phẩm, mức thuế CBPG áp dụng cho nhà xuất khẩu mới hoặc mức thuế hiện hành áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu nước ngoài.

TQ