Những con số biết nói

Theo kết quả điều tra 53 DTTS năm 2019 tại 54 tỉnh, 503 huyện, 5.468 xã có 14.119.256 người DTTS với 3.350.756 hộ DTTS chiếm 14,7% dân số cả nước (số liệu tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 tính trên 63 tỉnh, thành phố có 14.142.720 người DTTS với 3.612.331 hộ DTTS). Trong đó có 6 dân tộc trên 1 triệu người (Tày, Thái, Mường, Khmer, Nùng và Mông); 14 dân tộc dưới 10.000 người, trong đó có 5 dân tộc có dân số dưới 1.000 người (Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu).

Khu vực Trung du và miền núi phía Bắc có số người DTTS cao nhất (khoảng 7,0 triệu người), khu vực Tây Nguyên (khoảng 2,2 triệu người), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (2,1 triệu người), khu vực Tây Nam Bộ (1,3 triệu người)... Đây là địa bàn có nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú (đất, rừng, khoáng sản…), đầu nguồn các dòng sông lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và môi trường sinh thái.

Trong 51 tỉnh, thành phố có đông đồng bào DTTS sinh sống thành cộng đồng, có 01 tỉnh có tỷ lệ DTTS chiếm trên 90% dân số; 07 tỉnh có tỷ lệ DTTS chiếm từ 70% - 90% dân số;  04 tỉnh có tỷ lệ DTTS chiếm từ 50 - 70% dân số; 05 tỉnh có tỷ lệ DTTS chiếm từ 30% - 50% dân số; 12 tỉnh có tỷ lệ DTTS chiếm từ 10% - 30% dân số;  34 tỉnh có tỷ lệ DTTS chiếm dưới 10% dân số.

Ngoại trừ đồng bào Khmer, Chăm, Hoa chủ yếu sinh sống ở đồng bằng và thành thị, các dân tộc còn lại chủ yếu sinh sống thành cộng đồng ở khu vực miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn với địa hình chia cắt, giao thông đi lại khó khăn.

leftcenterrightdel
Lễ hội Đua ghe Ngo của đồng bào Khmer được tỉnh Sóc Trăng. Ảnh: TTM 

Nhiều vấn đề cấp bách cần có chính sách cụ thể để giải quyết

Một số vấn đề bức xúc trong đời sống của đồng bào DTTS, như: Di cư tự phát, nhà ở tạm bợ, thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt... chưa được giải quyết hiệu quả, thấu đáo; đời sống của một bộ phận đồng bào còn rất nhiều khó khăn.

Khả năng tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản của đồng bào DTTS còn rất khó khăn, khi mà còn khoảng 7% hộ DTTS chưa được sử dụng điện lưới quốc gia. Chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa ở vùng DTTS và miền núi tuy đã được nâng lên nhưng vẫn còn thấp so với mặt bằng chung cả nước.

Công tác đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm cho đồng bào DTTS còn nhiều hạn chế. Trình độ chuyên môn kỹ thuật, ý thức kỷ luật tác phong công nghiệp cũng như phong tục, tập quán của đồng bào DTTS còn hạn chế nên khó tiếp cận các dịch vụ việc làm, nhất là đi làm việc ở nước ngoài.

Cơ sở hạ tầng vùng DTTS vẫn còn rất thiếu và yếu kém, nhiều tuyến đường giao thông kết nối với các vùng phát triển, vùng sản xuất hàng hóa chưa được đầu tư xây dựng.

Chính sách giao đất, giao rừng chưa đảm bảo cho đồng bào DTTS sống và gắn bó với rừng. Việc lấn chiếm, tranh chấp đất đai giữa các hộ cá nhân với nhau, giữa các hộ cá nhân với các nông trường, lâm trường diễn ra ở một số địa phương, chưa được giải quyết triệt để.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ, tuyển dụng công chức thông qua thi tuyển gặp nhiều khó khăn; hệ thống chính trị cơ sở ở một số vùng đồng bào DTTS còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS trong cơ quan nhà nước các cấp có xu hướng giảm; hầu hết bộ, ngành và địa phương (nhất là cấp tỉnh) chưa đạt được tỷ lệ theo quy định tại Quyết định 402/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

An ninh, trật tự vùng DTTS và miền núi vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn, số vụ khiếu kiện, tranh chấp đất đai diễn biến khá phức tạp, chưa được giải quyết dứt điểm. Công cuộc phòng chống các loại tội phạm về ma túy (tái trồng cây thuốc phiện, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán ma túy); buôn lậu hàng hóa; lừa gạt, mua bán người qua biên giới; tàng trữ vũ khí quân dụng; xuất nhập cảnh trái phép... còn nhiều thách thức. Hiện tượng phá rừng, du canh du cư, di cư tự phát vẫn còn diễn ra. Các đối tượng phản động trong và ngoài nước vẫn chưa từ bỏ âm mưu, chiến lược “diễn biến hòa bình”, thành lập các ‘nhà nước”, “vương quốc” tự trị; lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng để lường gạt, lôi kéo, kích động đồng bào, gây mất an ninh, trật tự và đoàn kết dân tộc. Một số tà đạo, đạo lạ vẫn lén lút hoặc ngang nhiên hoạt động, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, làm mất bản sắc văn hóa tốt đẹp của một số dân tộc.

Quyết liệt từ hoàn thiện hệ thống pháp luật về công tác dân tộc

Hệ thống văn bản, quy phạm pháp luật về công tác dân tộc, chính sách dân tộc đang ngày càng được hoàn thiện và đồng bộ chính là một trong những thành tựu của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, thể hiện sự quyết tâm, nỗ lực của cả hệ thống chính trị trong việc quan tâm, chăm lo cho đời sống của đồng bào DTTS, từ đó, củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết các dân tộc.

leftcenterrightdel
Những chính sách đầu tư, hỗ trợ của Đảng, Nhà nước đang từng bước giúp đời sống của đồng bào DTTS và miền núi được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được quan tâm, bảo tồn. Ảnh: TTM 

Trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến công tác dân tộc, giai đoạn 2016 - 2021, Quốc hội đã ban hành 42 luật có nội dung liên quan đến công tác dân tộc như: Quyền dân sự được quy định trong Bộ Luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Cư trú, Luật Hộ tịch, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp…

Về quyền chính trị, qui định về bình đẳng trong ứng cử, bầu cử, quyền tham chính, quyền tự do lập hội, hội họp, quyền bình đẳng trước pháp luật…

Về quyền trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội được quy định trong các Luật Đất đai, Bộ Luật Lao động, Luật Việc làm, Luật Giáo dục, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế…

Về quyền dân sự, chính trị, có 15 luật ban hành với tổng số 36 điều liên quan về quyền bình đẳng cho đối tượng DTTS.

Và các nghị quyết liên quan đến các công tác dân tộc như: Thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế; các mục tiêu, dự toán; phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia; ban hành các tiêu chí, phân bổ và sử dụng ngân sách Nhà nước nhằm cải thiện đời sống và xóa đói giảm nghèo; ưu đãi đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới cho vùng đồng bào DTTS; kế hoạch, nhiệm vụ, về phổ cập giáo dục và chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo; thực hiện chính sách, pháp luật, thực hiện xã hội hóa để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm y tế, phòng chống dịch bệnh, cho đồng bào vùng DTTS, vùng đặc biệt khó khăn; nhiệm vụ, kế hoạch, phân bổ ngân sách để thực hiện các chính sách về đất đai, bảo vệ và phát triển rừng, đảm bảo môi trường sinh thái...

Giai đoạn 2016 - 2021, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 21 văn bản (17 nghị quyết của Quốc hội, 4 nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội) có nội dung liên quan đến công tác dân tộc. Trong đó, lần đầu tiên Quốc hội ban hành 02 nghị quyết về công tác dân tộc đó là Nghị quyết 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 phê duyệt Đề án Tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030 và Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030. 

Đánh giá về việc Quốc hội ban hành Nghị quyết 88/2019/QH14 và Nghị quyết 120/2020/QH14, ông Đinh Xuân Thắng, Phó Vụ trưởng Vụ tuyên truyền, Ủy ban Dân tộc, cho rằng, đó là những quyết định lịch sử, tạo bước ngoặt, đột phá, là động lực to lớn để đồng bào DTTS nỗ lực phấn đấu vươn lên, phát triển bền vững, hòa cùng với sự phát triển chung của cả nước.

Cũng trong giai đoạn 2016 - 2021, Chính phủ đã ban hành 40 văn bản liên quan đến công tác dân tộc trong đó có 23 văn bản quy phạm pháp luật quy định liên quan đến công tác dân tộc (19 nghị định; 01 quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 03 thông tư của bộ trưởng); 17 văn bản tổ chức triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có nội dung liên quan đến công tác dân tộc.

leftcenterrightdel
Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân vùng đồng bào DTTS và miền núi đang dần được cải thiện theo hướng tích cực. Ảnh: TTM

Các chính sách cơ đã tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế-xã hội của cộng đồng các dân tộc, vùng đồng bào DTTS và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, từ đó góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và bảo đảm an ninh quốc gia.

Những giải pháp cụ thể để giải quyết khó khăn cho vùng đồng bào DTTS 

Nghị quyết 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội đã đưa ra 08 giải pháp gồm: Xây dựng Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021- 2030; xây dựng và ban hành tiêu chí phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển bảo đảm toàn diện, khách quan, khoa học, chính xác, làm cơ sở xác định đối tượng, địa bàn cần ưu tiên để tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; xây dựng cơ sở dữ liệu đồng bộ vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để phục vụ công tác dự báo, hoạch định, quản lý thực hiện chính sách dân tộc; huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó nguồn lực Nhà nước giữ vai trò quan trọng, quyết định để huy động các nguồn lực khác; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc, về thực hiện chính sách dân tộc, chống mọi biểu hiện tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Điều chỉnh, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Dân tộc là đầu mối thống nhất theo dõi, tổng hợp các chính sách dân tộc; đề xuất và tham gia thẩm định chính sách, các dự án đầu tư liên quan đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số theo Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới và Quyết định số 402/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới. Có chính sách đặc thù tuyển dụng công chức, viên chức đối với người dân tộc thiểu số, nhất là nhóm dân tộc thiểu số rất ít người, nhóm dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn.

Chú trọng phát hiện, quy hoạch, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và thực hiện tốt chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ là người dân tộc thiểu số; Tăng cường xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Kịp thời biểu dương, tôn vinh, động viên người tiêu biểu có uy tín, doanh nhân, nhà khoa học trong cộng đồng các dân tộc thiểu số có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đổi mới và mở rộng chính sách tín dụng của ngân hàng chính sách xã hội theo hướng tăng định mức, mở rộng đối tượng được vay đến các dự án sản xuất, kinh doanh tạo sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số.

leftcenterrightdel
 Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo vệ sự bình đẳng của tất cả các dân tộc trong cả nước. Ảnh: TTM

Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; giai đoạn I từ năm 2021 - 2025 với 10 dự án thành phần, gồm:

Dự án 1: Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt.

Dự án 2: Quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết.

Dự án 3: Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị.

Dự án 4: Đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và các đơn vị sự nghiệp công của lĩnh vực dân tộc.

Dự án 5: Phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Dự án 6: Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch.

Dự án 7: Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.

Dự án 8: Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em.

Dự án 9: Đầu tư phát triển nhóm dân tộc thiểu số rất ít người và nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn.

Dự án 10: Truyền thông, tuyên truyền, vận động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Kiểm tra, giám sát, đánh giá việc tổ chức thực hiện chương trình.

Sự quan tâm, vào cuộc của cả hệ thống chính trị nước nhà đã mang lại những kết quả tích cực, dần thay đổi diện mạo cho đồng bào vùng DTTS: Kkết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư, góp phần tạo diện mạo mới cho vùng đồng bào DTTS và miền núi; đời sống của đồng bào các DTTS được cải thiện rõ nét; tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm gần đây đạt mức khá cao. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo và chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ; các giá trị văn hoá dân tộc truyền thống được quan tâm, bảo tồn và phát huy; quyền bình đẳng giữa các dân tộc cơ bản được bảo đảm; đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố; hệ thống chính trị cơ sở ở vùng dân tộc, miền núi được tăng cường, đội ngũ cán bộ được kiện toàn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ; quốc phòng, an ninh, chính trị được giữ vững, ổn định; công tác dân tộc đã phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố lòng tin của đồng bào DTTS đối với Đảng, Nhà nước; các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể các cấp đã cụ thể hoá thực hiện Nghị quyết phù hợp với điều kiện của địa phương, đơn vị.

Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tăng cường vận động, tuyên truyền, động viên đồng bào DTTS tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, phát huy nội lực để phát triển kinh tế, cải thiện và nâng cao cuộc sống, đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước.

Hoàng Nam