Ca khúc: Tự hào người làm báo Thanh tra

Bài 5: Sau hơn 7 năm khởi công, Khách sạn Dân tộc vẫn chưa thể hoàn thiện

Hoàng Nam

Thứ bảy, 13/01/2024 - 14:27

(Thanh tra) - Dự án Khách sạn Dân tộc do Nhà khách Dân tộc (NKDT) và Công ty Cổ phần Đầu tư và Khoáng sản Hợp Thành liên kết hợp tác đầu tư xây dựng khai thác trên khu đất diện tích 2.960 m2 tại số 349 Đội Cấn, TP Hà Nội với tổng mức đầu tư điều chỉnh là 1.096 tỷ đồng. Dự án khởi công xây dựng ngày 30/12/2016, nhưng đến nay vẫn đang trong quá trình hoàn thiện.

Dự án Đầu tư xây dựng Khách sạn Dân tộc vẫn chưa thể hoàn thiện sau hơn 7 năm khởi công. Ảnh: Hoàng Nam

Kết luận thanh tra số 896/KL-TTCP đã khẳng định, quá trình thực hiện, Ủy ban Dân tộc (UBDT), NKDT và các đơn vị liên quan còn một số thiếu sót, vi phạm về điều kiện liên kết, sử dụng, định giá tài sản nhà nước để liên kết, lựa chọn nhà đầu tư, ký hợp đồng hợp tác đầu tư và xác định tiền thuê đất.

Ký hợp đồng hợp tác thiếu cơ sở pháp lý

Đến năm 2016, UBND TP Hà Nội mới có thu hồi 2.960 m2 đất do UBDT quản lý, sử dụng tại số 349 phố Đội Cấn cho NKDT thuê 50 năm để thực hiện Dự án Đầu tư xây dựng Khách sạn Dân tộc (dự án).

Năm 2018, NKDT được ký hợp đồng thuê đất và năm 2019 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ).

Thế nhưng, ngày 9/6/2013, NKDT và Công ty Hợp Thành đã ký Hợp đồng số 135/2013/HĐHT (Hợp đồng HTĐT 135) hợp tác đầu tư, xây dựng và khai thác công trình Khách sạn Dân tộc.

NKDT phê duyệt hồ sơ yêu cầu và ký Hợp đồng HTĐT 135 nhưng không xác định tên tài sản, giá trị tài sản sử dụng để liên kết, không hạch toán kế toán việc liên kết. Việc xác định tài sản, giá trị tài sản góp vốn liên kết chỉ được thể hiện trong phương án tính diện tích thụ hưởng tối thiểu của NKDT khi hợp tác kinh doanh nêu tại báo cáo thẩm định giá của đơn vị tư vấn (Báo cáo tư vấn hiệu quả dự án đầu tư số 020812/TV-TVC ngày 1/8/2012 của Công ty CP Thẩm định giá Thăng Long), đó là lợi thế quyền thuê đất trong thời gian 50 năm, giá trị 131,605 tỷ đồng.

Điều 40 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP và ý kiến thống nhất của Bộ Tài chính tại Công văn số 6466/BTC-QLCS ngày 19/5/2011 không quy định, hướng dẫn NKDT được sử dụng lợi thế quyền thuê đất để liên kết. Do vậy, phương án tính diện tích tối thiểu NKDT được thụ hưởng theo lợi thế quyền thuê đất không có cơ sở pháp lý để đánh giá - kết luận thanh tra nêu rõ.

Sử dụng tài sản để liên kết đầu tư khi chưa đủ điều kiện

Ngày 03/02/2012, UBDT đã có Quyết định số 21/QĐ-UBDT bàn giao tài sản Nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính - NKDT. Tổng giá trị tài sản theo sổ sách kế toán: Nguyên giá là 22,841 tỷ đồng; giá trị còn lại là 11,449 tỷ đồng. Giá trị đánh giá lại là 153,962 tỷ đồng (trong đó: Giá trị QSDĐ (2.957,5 m2) là 138,374 tỷ đồng; nhà, vật kiến trúc và các tài sản khác gắn liền với nhà, đất: 15,587 tỷ đồng; tài sản lưu động, vốn đầu tư ngắn hạn... 1,266 tỷ đồng).

Ngày 19/12/012, UBDT ban hành Quyết định số 339/QĐ-UBDT cho phép NKDT được sử dụng tài sản để liên doanh, liên kết đầu tư xây dựng theo quy định tại Điều 44 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP và chủ trương của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 2284/TTg-KTN ngày 26/12/2008.

Tuy nhiên, theo ý kiến của Bộ Tài chính tại Công văn số 6466/BTC-QLCS ngày 19/5/2011, căn cứ khoản 2, Điều 37 Nghị định 52/2009/NĐ-CP thì NKDT là đơn vị sự nghiệp chưa tự chủ tài chính, nên việc UBDT phê duyệt cho phép NKDT được sử dụng tài sản đã đầu tư trên đất để liên kết là chưa đúng quy định tại khoản 1, Điều 40 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 3/6/2009 của Chính phủ.

UBDT và NKDT không sử dụng và không thuê tư vấn định giá trị tài sản đã đầu tư trên đất để liên kết theo ý kiến thống nhất của Bộ Tài chính tại Văn bản số 6466 ngày 19/5/2011, vi phạm quy định tại khoản 1, Điều 40, khoản 3 và khoản 5, Điều 44 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP.

Văn bản số 6466 ngày 19/5/2011 của Bộ Tài chính đồng ý cho UBDT (NKDT) được sử dụng tài sản đã đầu tư trên đất để liên kết, đồng thời thống nhất với UBDT được thanh lý (phá dỡ, hủy bỏ) tài sản trên đất để thực hiện dự án, số tiền thu từ thanh lý tài sản, NKDT được bổ sung Quỹ Phát triển hoạt động sự nghiệp, đồng nghĩa với việc NKDT không còn tài sản đã đầu tư trên đất để liên kết theo khoản 1, Điều 40 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP.

Tài sản đã đầu tư trên đất của NKDT được đưa vào phương án yêu cầu nhà đầu tư bồi hoàn cho NKDT khi giải phóng mặt bằng xây dựng NKDT. (Theo kết quả định giá tài sản đã đầu tư trên đất khi giải phóng mặt bằng là 14,012 tỷ đồng, nhà đầu tư đã trả cho NKDT).

Lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có thiếu sót, vi phạm

Theo quy định NKDT phải thuê thẩm định giá trị tài sản làm cơ sở thỏa thuận với bên liên kết.

UBDT, NKDT đã thuê và sử dụng kết quả thẩm định giá để phê duyệt tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án và quyền lợi tối thiểu của NKDT được thụ hưởng khi hợp tác đầu tư. Tuy nhiên đến thời điểm phê duyệt kế hoạch, hồ sơ yêu cầu lựa chọn nhà đầu tư, chứng thư thẩm định giá đã hết hiệu lực, không đáp ứng theo quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03/8/2005 của Chính phủ.

Hồ sơ yêu cầu lựa chọn nhà đầu tư không đưa điều kiện, yêu cầu (như: Các điều kiện cụ thể của hợp đồng; trách nhiệm hỗ trợ bổ sung của nhà đầu tư trong trường hợp tăng diện tích sử dụng công trình; phương án xử lý tài sản sau khi hết thời hạn liên kết) theo quy định tại Thông tư số 03/2009/TT-BKH, dẫn đến thiếu cơ sở pháp lý để thương thảo, ký kết hợp đồng về các nội dung này.

Việc đánh giá hồ sơ đề xuất chưa yêu cầu nhà đầu tư làm rõ việc sử dụng vốn chủ sở hữu đối với các dự án đang thực hiện để đánh giá khả năng huy động vốn chủ sở hữu cho dự án.

Qua kết quả Thanh tra, Tổng Thanh tra Chính phủ kiến nghị chỉ đạo UBDT rà soát, xác định lại tài sản, giá trị tài sản của NKDT sử dụng để liên kết thực hiện dự án và phương án phân chia sản phẩm của dự án (quyền lợi NKDT được thụ hưởng) theo thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật; phối hợp, đề nghị Bộ Tài chính có ý kiến về việc sử dụng tài sản công vào mục đích liên kết theo đúng quy định.

Có biện pháp xử lý, khắc phục các vi phạm trong việc liên kết thực hiện dự án đã được chỉ ra tại kết luận thanh tra theo đúng quy định; đánh giá lại năng lực liên kết thực hiện dự án của Công ty Hợp Thành, làm rõ nguyên nhân và có biện pháp chấn chỉnh, xử lý trách nhiệm của nhà đầu tư, chủ đầu tư trong việc chậm tiến độ, vi phạm cam kết về thời gian thực hiện dự án, ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và hoạt động kinh doanh khai thác dự án của NKDT theo đúng quy định.

Chỉ đạo chủ đầu tư rà soát, khẩn trương làm việc với UBND TP Hà Nội và bộ, ngành liên quan về việc điều chỉnh quyết định chủ trương đầu tư theo quy định; rà soát quy trình thủ tục thẩm định, phê duyệt giá trị tài sản Nhà nước là giá trị quyền sử dụng đất UBDT đã giao cho NKDT tự chủ tài chính, phối hợp với UBND TP Hà Nội thực hiện theo đúng thủ tục quy định.

Yêu cầu NKDT thu hồi khoản chi thanh toán hợp đồng tư vấn cho Công ty CP Giám định và Thẩm định giá Thăng Long số tiền 120 triệu đồng do không có sản phẩm chứng thư theo đúng hợp đồng và biên bản nghiệm thu.

Đồng thời đề nghị Bộ Tài chính xem xét, xử lý theo thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật đối với vi phạm về thẩm định giá của Công ty CP Giám định và Thẩm định giá Thăng Long đã nêu.

UBDT chỉ đạo đơn vị trực thuộc kiểm điểm trách nhiệm, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc phục ngay đối với các thiếu sót, khuyết điểm được chỉ ra qua thanh tra; theo thẩm quyền xử lý nghiêm đối với các tập thể, cá nhân có khuyết điểm, vi phạm trong việc liên kết thực hiện dự án.

Ý kiến bình luận:

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!

Tin cùng chuyên mục

Tin mới nhất

Xem thêm