Ca khúc: Tự hào người làm báo Thanh tra

Bồi thường theo hiện trạng sử dụng tại thời điểm thu hồi đất cho bà Nguyễn Thị Cần theo quy định

Huyền Anh

Thứ sáu, 20/10/2023 - 15:49

(Thanh tra) - Bà Nguyễn Thị Cần khiếu nại, đề nghị được bồi thường toàn bộ diện tích đất 654,6m2 thuộc thửa đất số 1126, tờ bản đồ số 12 là đất ở, khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình đường giao thông từ Ngã ba Voi, thành phố Thanh Hóa đi thành phố Sầm Sơn.

Dự án xây dựng đường từ ngã Ba Voi, thành phố Thanh Hóa đi thành phố Sầm Sơn. Ảnh (2021): https://reatimes.vn/

Nội dung khiếu nại của bà Nguyễn Thị Cần đã được Chủ tịch UBND thành phố Sầm Sơn giải quyết (lần đầu) tại Quyết định số 2528/QĐ-UBND ngày 22/7/2023, trong đó kết luận việc bà Nguyễn Thị Cần khiếu nại là có cơ sở một phần, cụ thể: Diện tích đủ điều kiện công nhận bồi thường đất ở là 350m2, phần diện tích còn lại 304,6m2 là đất trồng cây lâu năm.

Không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND thành phố Sầm Sơn, bà Nguyễn Thị Cần ủy quyền cho ông Lê Văn Sỹ tiếp tục có đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh.

Theo kết luận của cơ quan chức năng tỉnh Thanh Hóa, hồ sơ địa chính xã Quảng Minh qua các thời kỳ thể hiện, thửa đất ông Lê Văn Sỹ, bà Nguyễn Thị Cần khiếu nại: Theo sổ mục kê năm 1985 là thửa đất 189, tờ bản đồ số 4, diện tích 570m2, loại đất “T”; năm 1994 là thửa đất 272, tờ bản đồ số 4, diện tích 678m2, loại đất “T”; năm 2015 là thửa 1126, tờ bản đồ số 12, diện tích 678m2, loại đất ở nông thôn “ONT”; thửa đất sử dụng trước năm 1980 vào mục đích đất ở, trong quá trình sử dụng gia đình sử dụng ổn định không lấn chiếm, tranh chấp; thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở (năm 1994 là thửa đất 272, tờ bản đồ số 4, diện tích 678 m2, loại đất “T”; năm 1994, thửa 272, tờ bản đồ số 4 đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 478m2 loại đất Đ.M là do cấp nhầm), nhưng có tên trên sổ mục kê năm 1985, thuộc thửa đất có giấy tờ, trên giấy tờ chưa thể hiện diện tích đất ở.

Khoản 2, Điều 103, Luật Đất đai năm 2013 nêu: “2. Đối với trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được hình thành trước ngày 18/12/1980 và người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3, Điều 100 của luật này thì diện tích đất ở được xác định theo giấy tờ đó.

Trường hợp trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3, Điều 100 của luật này chưa xác định rõ diện tích đất ở thì diện tích đất ở được công nhận không phải nộp tiền sử dụng đất được xác định bằng không quá 05 lần hạn mức giao đất ở quy định tại Khoản 2, Điều 143 và Khoản 4, Điều 144 của luật này”.

Khoản 3, Điều 24, Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định: “Điều 24. Xác định diện tích đất ở khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở: 3. Trường hợp thửa đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở được hình thành trước ngày 18/12/1980, người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3, Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của nghị định này mà trong giấy tờ đó chưa xác định rõ diện tích đất ở thì diện tích đất ở được công nhận không phải nộp tiền sử dụng đất bằng diện tích thực tế của thửa đất đối với trường hợp diện tích thửa đất nhỏ hơn 05 lần hạn mức giao đất ở, bằng 05 lần hạn mức giao đất ở đối với trường hợp diện tích thửa đất lớn hơn 05 lần hạn mức giao đất ở theo quy định của Luật Đất đai.

Hạn mức đất ở được quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 4, Quyết định 4463/2014/QĐ-UBND ngày 12/12/2014 của UBND tỉnh Thanh Hóa về việc ban hành quy định giao hạn mức đất ở; diện tích tối thiểu được tách thửa đối với đất ở; hạn mức công nhận đất ở và hạn mức giao đất trống, đồi núi trọc, đất có mặt nước thuộc nhóm đất chưa sử dụng cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, hạn mức tối đa bằng 05 lần hạn mức giao đất ở.

Diện tích đất thu hồi của hộ bà Nguyễn Thị Cần bao gồm: Diện tích thửa đất hình thành trước 18/12/1980, trên đất có nhà ở, gia đình sử dụng ổn định đến thời điểm thu hồi đất là 570m2 đủ điều kiện bồi thường là đất ở; năm 2010 gia đình bà đã cho tặng gia đình ông Lê Văn Sơn 50m2 đất ở, còn lại được bồi thường là 520m2 (570m2-50m2). Diện tích đất tăng thêm sau năm 1985 là: 134,6m2 không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc tăng thêm, không vi phạm pháp luật về đất đai, đủ điều kiện bồi thường đất trông cây lâu năm theo hiện trạng sử dụng đất tại thời điểm thu hồi.

Do đó việc ông Lê Văn Sỹ (được bà Nguyễn Thị Cần ủy quyền) khiếu nại đề nghị được bồi thường toàn bộ diện tích đất 654,6m2 thuộc thửa đất số 1126, tờ bản đồ số 12 là đất ở, khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình đường giao thông từ Ngã ba Voi, thành phố Thanh Hóa đi thành phố Sầm Sơn là không có cơ sở.

Từ kết quả thẩm tra xác minh, kết luận và các căn cứ pháp luật nêu trên, ngày 19/10/2023, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa Lê Đức Giang đã quyết định việc ông Lê Văn Sỹ (được bà Nguyễn Thị Cần ủy quyền) khiếu nại, đề nghị được bồi thường toàn bộ diện tích đất 654,6m2 thuộc thửa đất số 1126, tờ bản đồ số 12 là đất ở, khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án đầu tư xây dựng công trình đường giao thông từ Ngã ba Voi, thành phố Thanh Hóa đi thành phố Sầm Sơn là không có cơ sở.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa giao UBND thành phố Sầm Sơn bồi thường 520m2 đất ở; 134,6m2 đất trồng cây lâu năm theo hiện trạng sử dụng đất tại thời điểm thu hồi đất cho bà Nguyễn Thị Cần theo quy định.

Ý kiến bình luận:

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!

Tin cùng chuyên mục

Tin mới nhất

Xem thêm