Ca khúc: Tự hào người làm báo Thanh tra

Theo dõi Báo Thanh tra trên

Sẽ được xem xét miễn tiền SDĐ

Thứ ba, 17/11/2015 - 09:31

(Thanh tra)- Tổng cục Thuế vừa nhận được Công văn số 146/CCTHCNSTV-TNCN&TK ngày 15/7/2015 của Chi cục Thuế huyện Ea Súp về thu tiền sử dụng đất (SDĐ) lấn chiếm. Trên cơ sở các căn cứ pháp luật, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:

Tại Khoản 2, Điều 6 Nghị định số 45/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về thu tiền SDĐ của hộ gia đình, cá nhân đối với đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993 mà không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai, quy định: “2. Hộ gia đình, cá nhân SDĐ để ở mà tại thời điểm bắt đầu SDĐ đã có một trong các hành vi vi phạm theo quy định tại Điều 2 Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, nhưng nay nếu được cấp giấy chứng nhận quyền (GCNQ) SDĐ ở thì phải nộp 50% tiền SDĐ đối với diện tích đất trong hạn mức công nhận đất ở theo giá đất quy định tải Bảng giá đất; nộp 100% tiền SDĐ đối với diện tích dất vượt hạn mức công nhận đất ở theo giá đất quy định tại điểm b, điểm c, Khoản 3 Nghị định này tại thời điểm có quyết định công nhận quyền SDĐ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Trong trường hợp SDĐ có công trình xây dựng không phải là nhà ở, nếu được cấp GCNQ SDĐ sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp như hình thức giao đất có thu tiền SDĐ với thời hạn sử dụng lâu dài thì phải nộp 50% tiền SDĐ theo giá đất quy định tại điểm b, điểm c, Khoản 3 Điều 3 Nghị định này của loại đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp có thời hạn SDĐ cao nhất quy định tại Khoản 3 Điều 126 Luật Đất đai tại thời điểm có quyết định công nhận quyền SDĐ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền”.

Tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 45 cũng quy định: “1. Miễn tiền SDĐ trong hạn mức giao đất ở khi SDĐ để thực hiện chính sách nhà ở, đất ở đối với người có công với cách mạng thuộc đối tượng được miễn tiền SDĐ theo quy định của pháp luật về người có công, hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng biên giới, hải đảo; SDĐ để xây dựng nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật về nhà ở; nhà ở cho người phải di dời do thiên tai”.

“2. Miễn tiền SDĐ trong hạn mức gia đất ở khi cấp giấy chứng nhận đất lần đầu đối với đất do chuyên mục đích SDĐ từ đất không phải là đất ở sang đất ở do tách hộ đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi theo Danh mục các xã đặc biệt khó khăn do Thủ tướng Chính phủ quy định”.

Tại Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về xử lý, cấp GCNQ SDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với hộ gia đình, cá nhân SDĐ có vi phạm pháp luật đất đai trước ngày 1/7/2014.

Căn cứ vào các quy định nêu trên và căn cứ Phiếu chuyển thông tin địa chính xác nhận: Trường hợp hộ gia đình bà Nguyễn Thị Hoài Thanh nhận chuyển nhượng SDĐ từ ông Bình vào tháng 11/1996 và làm nhà ở từ năm 1996 đến nay, không có tranh chấp. Nguồn gốc đất do ông Bình khai phá lấn chiếm đất lâm nghiệp vào năm 1990 do xã Ea Súp quản lý (không có văn bản ngăn chặn). Khi hộ gia đình bà Thanh được cấp giấy chứng nhận thì phải nộp tiền SDĐ theo quy định.

Do đó, đề nghị Chi cục Thuế huyện Ea Súp báo cáo cơ quan có thẩm quyền để xác minh diện tích đất ở do hộ gia đình bà Thanh đang sử dụng, nếu thuộc một trong các trường hợp được cấp GCNQ SDĐ theo quy định tại Khoản 1, điểm a và điểm c Khoản 2, điểm b Khoản 3 Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì phải nộp tiền SDĐ theo quy định tại Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP nêu trên và được xem xét miễn tiền SDĐ theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP của Chính phủ.

Ban Mai

Ý kiến bình luận:

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!

Tin cùng chuyên mục

Tin mới nhất

Xem thêm