Ca khúc: Tự hào người làm báo Thanh tra

Theo dõi Báo Thanh tra trên

Không chấp nhận đơn của ông Đỗ Tấn Phát

Thứ bảy, 06/07/2013 - 09:11

(Thanh tra)- UBND TP Đà Nẵng vừa ban hành quyết định giải quyết đơn khiếu nại (KN) của ông Đỗ Tấn Phát, trú tại tổ 16, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ; khẳng định: Chủ tịch UBND quận Cẩm Lệ ban hành Quyết định số 2687/QĐ-UBND, ngày 7/12/2012 giải quyết đơn KN của ông là đúng quy định.

1- Về KN Quyết định thu hồi đất số 1061/QĐ-UBND, ngày 24/7/2012 của UBND quận Cẩm Lệ không ghi loại đất thu hồi, theo lãnh đạo UBND TP Đà Nẵng, là không đúng. Bởi vì, Điều 53, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP, ngày 25/5/2007 đã bị bãi bỏ bởi Nghị định số 69/2009/NĐ-CP, ngày 13/8/2009 của Chính phủ về quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất (SDĐ), giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Theo đó, trong quyết định thu hồi đất không bắt buộc phải ghi loại đất thu hồi.


2-
Về việc ông Phát đề nghị ban hành quyết định thu hồi đất riêng đối với các trường hợp ông Phát, bà Cơ tự  chuyển nhượng cho ông Dũ, ông Lực, ông Huy là không có cơ sở xem xét, giải quyết. Bởi vì, các giấy thỏa thuận cho đất làm nhà ở của ông Phát và bà Cơ nêu trên không đúng thủ tục hành chính trong việc tặng, cho quyền SDĐ theo quy định tại Điều 146, Nghị định số 181/2004/NĐ-CP, ngày 29/10/2004 của Chính phủ (bên nhận tặng cho quyền SDĐ không ký tên vào văn bản cho nhận, không đăng ký tại Văn phòng Đăng ký Quyền SDĐ, không đủ căn cứ tách thửa).


3- Về KN Quyết định số 1898/QĐ-UBND, ngày 29/8/2012 về việc phê duyệt tính pháp lý về nhà, đất, vật kiến trúc, cây cối hoa màu… cho 4 hộ giải tỏa Dự án Khu D - Khu dân cư Nam cầu Cẩm Lệ, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, phần phê duyệt đối với hộ ông:


a) Việc ông Phát yêu cầu được bồi thường 100% giá trị đất ở đối với diện tích đất 767,3m2 là không có cơ sở để xem xét, giải quyết vì hộ ông kê khai theo Nghị định số 64/CP, ngày 27/9/1993 của Chính phủ diện tích 725m2 tại thửa đất số 784, tờ bản đồ số 02, được UBND huyện Hòa Vang cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ ngày 22/7/1994 tại thửa đất số 784, tờ bản đồ số 02, diện tích 725m2 đất thổ cư. Diện tích đất đo đạc thực tế tại thời điểm giải tỏa là 767,3m2, phần diện tích đất 42,3m2 vượt so với diện tích đất được UBND huyện Hòa Vang cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ có thể xem là diện tích tự mở rộng.


Do đó, căn cứ Điều 6, Điều 20 Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn TP Đà Nẵng ban hành kèm theo Quyết định số 71/2007/QĐ-UBND, ngày 20/12/2007 của UBND TP, thì việc UBND quận Cẩm Lệ phê duyệt tính pháp lý về nhà đất vật kiến trúc, cây cối hoa màu… cho hộ ông Phát tại Quyết định số 1898/QĐ-UBND, ngày 29/8/2012, trong đó: Bồi thường 100% giá trị đất ở cho diện tích đất 725m2 (diện tích trong giấy chứng nhận quyền SDĐ), hỗ trợ 100% giá trị đất ở cho diện tích đất 42,3m2 (ngoài giấy chứng nhận quyền SDĐ) là đúng với quy định.


b) Việc Chủ tịch UBND quận Cẩm Lệ ban hành Quyết định số 1898/QĐ-UBND, ngày 29/8/2012 về việc phê duyệt tính pháp lý về nhà, đất, vật kiến trúc, cây cối hoa màu… cho 4 hộ giải tỏa Dự án Khu D - Khu dân cư Nam cầu Cẩm Lệ, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, trong đó đã phê duyệt giải quyết về bồi thường thiệt hại do thu hồi đất của hộ ông là có căn cứ và đúng thẩm quyền theo quy định tại:


- Khoản 1, Điều 8 Quyết định số 47/2006/QĐ-UBND, ngày 18/5/2006 của UBND TP Đà Nẵng: “1. Việc xét tính pháp lý về nhà, đất được thực hiện theo đúng quy định hiện hành của UBND TP. Hội đồng Giải phóng mặt bằng chịu trách nhiệm xét tính pháp lý về nhà, đất, xác định loại đất, hạng đất, vị trí, hệ số của diện tích đất thu hồi của từng trường hợp riêng biệt trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để làm cơ sở cho Ban Giải tỏa đền bù tính giá trị bồi thường, hỗ trợ”.


- Khoản 6, Điều 8 Quyết định số 47/2006/QĐ-UBND, ngày 18/5/2006 của UBND TP: “Văn phòng UBND quận, huyện có trách nhiệm trình Chủ tịch UBND cùng cấp ký phê duyệt kết quả xét tính pháp lý về nhà, đất trong thời gian không quá 3 ngày, kể từ ngày Hội đồng Giải phóng mặt bằng trình kết quả đề nghị phê duyệt”.


- Khoản 1, Điều 30 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP, ngày 13/8/2009 của Chính phủ: “Nội dung phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư gồm: a) Tên, địa chỉ của người bị thu hồi đất; b) Diện tích, loại đất, vị trí, nguồn gốc của đất bị thu hồi; số lượng, khối lượng, tỷ lệ phần trăm chất lượng còn lại của tài sản bị thiệt hại; c) Các căn cứ tính toán số tiền bồi thường, hỗ trợ như giá đất tính bồi thường, giá nhà, công trình tính bồi thường, số nhân khẩu, số lao động trong độ tuổi, số lượng người được hưởng trợ cấp xã hội; d) Số tiền bồi thường, hỗ trợ; đ) Việc bố trí tái định cư; e) Việc di dời các công trình của Nhà nước, của tổ chức, của cơ sở tôn giáo, của cộng đồng dân cư; g) Việc di dời mồ mả.


- Điểm b, Khoản 2, Điều 31 Nghị định 69/2009/NĐ-CP, ngày 13/8/2009 của Chính phủ: “Phòng Tài nguyên và Môi trường trình UBND cấp huyện phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với trường hợp không thuộc quy định tại điểm a khoản này”.


Do đó, việc ông Phát cho rằng theo quy định của pháp luật không có điều khoản nào quy định cho phép Chủ tịch UBND quận, huyện phê duyệt tính pháp lý về nhà, đất… mà phải ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho người có đất bị thu hồi là không đúng.


4- Theo lãnh đạo UBND TP Đà Nẵng, việc ông Phát cho rằng UBND quận Cẩm Lệ không căn cứ Quyết định số 35/2009/QĐ-UBND và Quyết định số 36/2009/QĐ-UBND, ngày 24/12/2009 của UBND TP khi xét tính pháp lý, phê duyệt mức bồi thường nhà, đất của ông là không đúng. Bởi vì, dự án Khu D - Khu dân cư Nam cầu Cẩm Lệ được thực hiện từ năm 2008, UBND TP đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ thiệt hại và bố trí tái định cư tại Quyết định số 5034/QĐ-UBND, ngày 24/6/2008. Theo đó, tại Khoản 1, Mục II, Phần I quy định: Dự án này được áp dụng các văn bản sau: Quyết định số 70/2007/QĐ-UBND, ngày 20/12/2007 của UBND TP Đà Nẵng về việc ban hành quy định giá các loại đất trên địa bàn TP Đà Nẵng; Quyết định số 71/2007/QĐ-UBND, ngày 20/12/2007 của UBND TP Đà Nẵng về việc ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn TP Đà Nẵng.


Ngoài ra, theo Điều 62 Quyết định số 36/2009/QĐ-UBND, ngày 24/12/2009 của UBND TP Đà Nẵng (có hiệu lực từ ngày 4/1/2010) quy định: Các dự án đang thực hiện dở dang trước ngày quyết định này có hiệu lực thì tiếp tục thực hiện theo quyết định đã phê duyệt của UBND TP. Do vậy, việc UBND quận Cẩm Lệ căn cứ Quyết định số 70/2007/QĐ-UBND và Quyết định số 71/2007/QĐ-UBND, ngày 20/12/2007 của UBND TP để phê duyệt tính pháp lý và mức bồi thường thiệt hại do thu đất đối với hộ ông là đúng quy định.


Lãnh đạo UBND TP Đà Nẵng khẳng định: Chủ tịch UBND quận Cẩm Lệ ban hành Quyết định số 2687/QĐ-UBND, ngày 7/12/2012 giải quyết đơn KN của ông là đúng quy định.


Từ kết quả xác minh trên; theo đề nghị của Chánh Thanh tra TP, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND TP không chấp nhận đơn của ông Đỗ Tấn Phát KN Quyết định số 2687/QĐ-UBND, ngày 7/12/2012 của Chủ tịch UBND quận Cẩm Lệ về giải quyết đơn KN của ông Đỗ Tấn Phát.


Lãnh đạo UBND TP Đà Nẵng nêu rõ: Nếu không đồng ý với quyết định này thì ông Đỗ Tấn Phát được quyền khởi kiện vụ án hành chính tại TAND TP theo quy định của pháp luật.


Hàn Ngọc

Ý kiến bình luận:

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!

Tin cùng chuyên mục

Tin mới nhất

Xem thêm