Phát sinh tranh chấp từ việc chia di sản thừa kế

Theo nội dung vụ án, bà Nguyễn Thị Ba (địa chỉ tại xã Trung Hòa, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang) và chồng là ông Nguyễn Văn Dựt (sinh năm 1928, chết năm 2002) có 5 người con gồm: Nguyễn Văn Tr. (chết năm 2015); Nguyễn Văn S.; Nguyễn Thị B.; Nguyễn Thị Th. và Nguyễn Thị T..

Vợ chồng bà Ba, ông Dựt được cha mẹ để lại phần đất diện tích 19.280m2, thửa 75, 77, 78, 79, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số 1420/QSDĐ/589/QĐUB ngày 30/12/1998 cấp cho ông Nguyễn Văn Dựt, tại ấp Phú Hòa, xã Trung Hòa, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

Năm 2001, ông Nguyễn Văn Dựt cho bà Th. một phần đất diện tích 4.000m2, thửa số 75, 1067 và bà Th. đã được cấp GCNQSDĐ vào năm 2003.

Năm 2002, ông Dựt chết, bà Ba làm thủ tục sang tên phần đất còn lại và được UBND huyện Chợ Gạo cấp GCNQSDĐ số 2053/QSDĐ/2371/QĐ-UBND HCG, diện tích 15.280m2 gồm các thửa 77, 78, 79 tờ bản đồ số 01.

Ngoài ra, năm 1996 bà Nguyễn Thị Ba có đứng phần đất diện tích 3.422m2 (gồm thửa 56 có diện tích 1.719m2, đo đạc thực tế 1.933,8m2; thửa 144 diện tích 1.205m2) tại xã Hòa Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Long An theo GCNQSDĐ số 57/QSDĐ/0831/LA ngày 7/9/1996 của UBND huyện Châu Thành. Đối với thửa số 144, ngày 21/8/2003 chỉnh lý trang 4 diện tích còn 972m2.

Ngày 11/5/2005, bà Nguyễn Thị Ba chuyển quyền sử dụng đất diện tích 169,7m2 thổ cư cho bà Nguyễn Thị Th. nên diện tích thửa 144 còn lại 699,6m2 (đo đạc thực tế là 698,6m2).

Năm 2010, bà Ba được UBND huyện Châu Thành, tỉnh Long An cấp đổi lại GCNQSDĐ đối với hai phần đất tại xã Hòa Phú. Phần đất diện tích 699,6m2 thuộc thửa số 03, tờ bản đồ 09 có GCNQSDĐ số CH00362; phần đất có diện tích 1.891,7m2 thuộc thửa số 329, tờ bản đồ 09 có GCNQSDĐ số CH00363.

Về việc phân chia di sản, sau khi ông Nguyễn Văn Dựt chết, năm 2004 bà Nguyễn Thị Ba đến UBND xã Trung Hòa (huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang) lập thủ tục phân chia di sản thừa kế của ông Dựt và của bà Ba cho các con. Trong số các con thì ông Nguyễn Văn S. vắng mặt.

Năm 2017, ông Nguyễn Văn S. làm đơn khởi kiện ra TAND tỉnh Tiền Giang. Ông S. yêu cầu bà Nguyễn Thị Ba thực hiện cam kết chia cho ông S. diện tích 3.080m2 đất tại ấp Phú Hòa, xã Trung Hòa, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang; toàn bộ nhà và diện tích đất tại thửa đất số 03, tờ bản đồ 09 có GCNQSDĐ số CH00362 thuộc xã Hòa Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Long An; diện tích 1.917m2 đất thuộc thửa số 329 tại ấp 3 xã Hòa Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.

Tranh cãi về “giấy cam kết”

Phản ánh tới Báo Thanh tra, bà Nguyễn Thị Ba cho biết, đã nhiều lần gửi đơn đến các cơ quan có thẩm quyền, đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm số 170/2021/DS-PT ngày 8/4/2021 của Tòa án nhân dân (TAND) Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh và Bản án sơ thẩm số 38/2020/DS-ST ngày 16/9/2020 của TAND tỉnh Tiền Giang, trong vụ án “chia di sản thừa kế” và “tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất”.

Tại Bản án sơ thẩm số 38/2020/DS-ST, TAND tỉnh Tiền Giang tuyên xử: Buộc bị đơn Nguyễn Thị Ba có nghĩa vụ thực hiện cam kết giao toàn bộ tài sản quyền sử dụng đất và nhà theo GCNQSDĐ số CH00362 có diện tích 689,6m2; GCNQSDĐ số CH00363 diện tích 1.933,6m2, tại xã Hòa Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Long An và phần đất 2.870,8m2 tại ấp Phú Hòa, xã Trung Hòa, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang do bà Nguyễn Thị Ba đứng tên cho ông Nguyễn Văn S..

Bản án phúc thẩm số 170/2021/DS-PT của TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh cũng buộc bà Nguyễn Thị Ba có nghĩa vụ giao trả, công nhận cho ông Nguyễn Văn S. được quyền sử dụng các diện tích đất nói trên.

Về chứng cứ là “giấy cam kết” mà nguyên đơn Nguyễn Văn S. đưa ra, bà Nguyễn Thị Ba cho rằng bà chưa từng hứa miệng hay ký bất cứ tờ cam kết nào về việc sẽ cho ông Nguyễn Văn S. phần đất và nhà nêu trên.

“Đó là một tờ giấy photo không đủ trang, không có chữ ký, không có ngày tháng năm, không có chứng thực, người làm chứng cho tính chính xác của tờ cam kết này là không có thật, chưa được tòa án 2 cấp làm rõ, không đối chất trước tòa…”, đơn của bà Nguyễn Thị Ba phản ánh.

Tuy nhiên, TAND tỉnh Tiền Giang lại căn cứ vào Công văn số 290/CV-UBND ngày 4/10/2019 của UBND xã Trung Hòa, các biên bản hòa giải và xác nhận của người làm chứng để nhận định ông S. khởi kiện yêu cầu bà Ba phải thực hiện giao tài sản đã chia cho ông S. theo cam kết phân chia thừa kế nhà và đất là có cơ sở và phù hợp quy định.

Luật sư nói gì?

Luật sư Phạm Văn Huy (Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh), là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Nguyễn Thị Ba. Tại phiên tòa sơ thẩm, luật sư Phạm Văn Huy phát biểu: Đối với phần đất 3.080m2 là phần đất nằm trong tài sản chung của vợ chồng ông Dựt, bà Ba.

Nguyên đơn yêu cầu thực hiện cam kết nhưng không cung cấp được bản cam kết, tờ cam kết photocoppy không có bản chính, không chứng thực, nên xem như không có việc cam kết phân chia xảy ra trên thực tế.

Đối với phần đất diện tích 698,6m2 tại ấp 2 xã Hòa Phú, theo luật sư Phạm Văn Huy, phần đất có nguồn gốc cha bà Ba để lại, ông Dựt, bà Ba đã cất nhà ở từ năm 1974, ông S. khai ở từ nhỏ và xây dựng nhà là không đúng. Do vậy, đây là tài sản của bà Ba và ông Dựt, nên bà Ba yêu cầu chia và nhận bằng hiện vật trả giá trị cho các đồng thừa kế là phù hợp pháp luật.

Về phần đất diện tích 1.933,8m2 tại ấp 3 xã Hòa Phú, luật sư cho rằng phần đất này có nguồn gốc là của ông Lăng di chúc lại cho bà Ba, nên đây là tài sản của bà Ba, bà Ba không đồng ý phân chia.

Trong khi đó, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn thì cho rằng, ông S. khởi kiện yêu cầu bà Ba thực hiện cam kết giao phần thừa kế đã chia là có cơ sở.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang nêu quan điểm: Ông S. yêu cầu thực hiện cam kết là không có cơ sở, vì không có giấy cam kết bản chính hoặc sao y chứng thực.

Hiện nay, bị đơn Nguyễn Thị Ba tiếp tục làm đơn gửi các cơ quan có thẩm quyền, đề nghị xem xét lại các bản án của TAND tỉnh Tiền Giang và TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bà và bảo vệ sự công minh của pháp luật.

Thu Huyền