Ca khúc: Tự hào người làm báo Thanh tra

Theo dõi Báo Thanh tra trên

Công bố giá vật liệu xây dựng một đằng, thực tế lại một nẻo, ai chịu trách nhiệm?

Văn Thanh

Thứ ba, 21/03/2023 - 11:36

(Thanh tra)- Công bố giá vật liệu xây dựng (VLXD) để làm cơ sở ký hợp đồng, thanh quyết toán ở các công trình sử dụng vốn Nhà nước so với thực tế chỉ bằng một nửa. Việc công bố giá VLXD đang khiến các nhà thầu trên địa bàn Thanh Hóa lao đao, công trình chậm tiến độ, nguy cơ các doanh nghiệp phá sản cận kề.

Liên Sở Xây dựng và Tài chính công bố giá vật liệu xây dựng chưa sát với giá thực tế khiến nhiều doanh nghiệp xây dựng lao đao. Ảnh: VT

Cơ quan chức năng phải làm gì để công bố giá VLXD đúng giá trị thực

Thời gian qua, Báo Thanh tra đăng loạt bài “Hệ lụy từ việc thiếu hụt và tăng giá tài nguyên đất, cát ở Thanh Hóa", phản ánh việc giá đất, cát, đá trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa bỗng dưng "tăng phi mã" khiến các công trình, dự án chậm tiến độ, một số doanh nghiệp “dọa” trả dự án vì càng làm càng lỗ.

Sau khi báo đăng, chúng tôi tiếp tục nhận được nhiều ý kiến phản ánh đa chiều của người dân và doanh nghiệp. Cụ thể, theo công bố giá VLXD gần đây nhất của liên sở: Xây dựng và Tài chính, khu vực TP Thanh Hóa, cát bê tông 215 nghìn đồng/m3, cát trát 225 nghìn đồng/m3. Tuy nhiên, theo khảo sát giá thị trường, giá cát xây, trát 400 nghìn đồng/m3, cát nền 250 nghìn đồng/m3. Tại huyện Quảng Xương, giá theo công bố cụm I, cát xây, trát 267.800 đồng/m3, thực tế giá thị trường 350 nghìn đồng/m3 (chưa thuế VAT); cát bê tông giá công bố 289.200 đồng/m3, giá thị trường 350 nghìn đồng/m3 (chưa thuế giá trị gia tăng). Tại huyện Quan Hóa, cụm I giá công bố là 245 nghìn đồng/m3, thực tế thị trường 400 nghìn đồng/m3; cát nền thông báo 165 nghìn đồng/m3, thực tế không có hàng để bán… Trong khi đó, hầu hết các ban quản lý dự án từ tỉnh đến huyện đều căn cứ vào giá công bố của Sở Xây dựng làm căn cứ mời thầu, ký kết hợp đồng, thanh quyết toán các công trình có sử dụng vốn ngân sách Nhà nước.

Giá cát thực tế cao gấp đôi so với giá cát do liên ngành sở: Xây dựng và Tài chính công bố ở các địa phương. Việc này đang khiến doanh nghiêp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa gặp khó khăn về việc mua đất, cát để phục vụ cho các công trình. Ảnh: VT

Việc công bố giá VLXD hàng tháng, hàng quý không sát với thực tế giá thị trường, cùng với việc khan hiếm đất, cát đã làm ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh, tiến độ của các công trình, dự án của doanh nghiệp thực hiện các gói thầu có sử dụng vốn Nhà nước. Để có nguồn VLXD và hóa đơn cung cấp cho các công trình, nhiều nhà thầu xây dựng đã đấu mối với các chủ mỏ nhưng lại không có trữ lượng để bán, nếu có bán thì giá cao gấp đôi so với giá công bố của Sở Xây dựng.

Theo khảo sát của phóng viên, tại các huyện miền núi Mường Lát, Lang Chánh, Quan Sơn, Quan Hóa đều không có mỏ cát được cấp phép khai thác, có một số ít mỏ đá được cấp phép nhưng trữ lượng ít hoặc không đáp ứng được cho nhu cầu đầu tư công. Việc này rất khó để các doanh nghiệp hoàn thành tiến độ theo hợp đồng. Nếu muốn đạt tiến độ bắt buộc các nhà thầu phải mua VLXD của các nhà cung cấp khai thác “thổ phỉ” không có hóa đơn, buộc doanh nghiệp phải lấy hóa đơn nơi khác để hợp thức hóa thì đồng nghĩa với việc đưa các nhà thầu vào tình thế sai phạm, có doanh nghiệp đã vướng vào vòng lao lý.

“Chúng tôi mất tiền mua thật, giá cao hơn thông báo giá của Nhà nước, ai cũng biết nhưng “tiền mất tật mang, tội vẫn phải chịu” vì khi công an vào cuộc điều tra sẽ khép vào tội “mua bán hóa đơn trái phép”. Việc này rất nhiều người biết, cùng với bất cập trong quy hoạch các mỏ khoáng sản không cân đối giữa nguồn cung và cầu ở các địa phương, dẫn đến tình trạng khan hiếm nguồn VLXD chính thống. Do đó, để đảm bảo minh bạch, khách quan trong việc công bố giá VLXD, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa cần chỉ đạo các ngành chức năng khảo sát thực tế để công bố giá cho sát với thực tế nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho các doanh nghiệp trên địa bàn”, một chủ doanh nghiệp thi công ở huyện Quan Hóa cho biết.

Đừng để doanh nghiệp càng làm càng lỗ và nguy cơ phá sản

Trao đổi với phóng viên Báo Thanh tra, một doanh nghiệp chuyên ở lĩnh vực đường giao thông ở Thanh Hóa cho biết: Doanh nghiệp chúng tôi làm trong nghề giao thông khá nhiều năm, dày dạn kinh nghiệm, thế nhưng chưa bao giờ thấy khó khăn như năm nay. Khó ở chỗ, lúc đấu thầu thì giá VLXD thấp, khi thực hiện dự án thì giá VLXD cát, đất, đá bỗng dưng tăng cao, lại khan hiếm, trong khi đó, giá không được điều chỉnh, các chủ đầu tư chỉ thanh quyết toán theo giá công bố của liên sở: Xây dựng và Tài chính, trong khi giá công bố và giá mua VLXD thực tế lại chênh lệch gấp đôi. Ví dụ, hiện nay doanh nghiệp chúng tôi đang thi công tuyến đường giao thông Thịnh Đông 2 ở huyện Hoằng Hóa, mua đất ở xã Hà Sơn, huyện Hà Trung giá 49.000 đồng/m3 (chưa thuế giá trị gia tăng). Nếu so với giá Nhà nước công bố thì trung bình 1m3 đất đắp, doanh nghiệp phải bù lên đến 20 nghìn đồng/m3. Ngoài ra, một số bất cập khác ở các dự án khi thẩm định thì đất lấy ở 4 mỏ khác nhau, nhưng khi thi công công trình thì cả 4 mỏ này đều chưa đưa vào khai thác. Để đảm bảo tiến độ ký kết, doanh nghiệp chúng tôi phải mua đất ở mỏ khác thì lại bị công an và các ngành chức năng quy kết là mua đất không đúng vị trí.

Trên thực tế, khi đấu thầu áp dụng theo giá thực tế để lập giá dự thầu thì vượt giá phê duyệt gói thầu nên nhà thầu muốn trúng thầu phải lấy thông báo giá hàng quý của liên sở: Xây dựng và Tài chính làm giá dự thầu. Vì thế, trong quá trình thi công mua VLXD, bên bán chỉ xuất hóa đơn giá trị gia tăng theo giá trị của liên sở: Xây dựng và Tài chính công bố ở các địa phương. Đây cũng là lỗ hổng để các chủ mỏ đất, đá, cát có dấu hiệu trốn thuế.

“Hiện nay, doanh nghiệp chúng tôi đang làm công trình ở huyện Mường Lát, Quan Hóa, Bá Thước, Quan Sơn, ở những địa phương này không có mỏ, giá cát lại cao, trong khi giá liên sở: Xây dựng và Tài chính công bố chỉ bằng một nửa so với thực tế doanh nghiệp đi mua ở các tỉnh khác hoặc huyện khác đưa về. Do không có mỏ, khi công an kiểm tra hóa đơn, chứng từ, bắt buộc doanh nghiệp phải dừng thi công công trình để tìm các đối tác cung cấp nguồn cát đúng nguồn gốc, hóa đơn. Nếu cứ đà này, càng làm càng lỗ, nguy cơ phá sản là hiện hữu. Do đó, chúng tôi kiến nghị lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa cùng các ban, ngành chức năng nên kiểm tra thực tế, tìm giải pháp “cứu” doanh nghiệp trong lúc “nước sôi lửa bỏng” như thế này”, đại diện doanh nghiệp nói.

Chia sẻ về giá VLXD, ông Hoàng Văn Hưng, Giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng TP Thanh Hóa cho biết: Hiện nay, nhiều nhà thầu không dám ứng tiền, vì nếu ứng thì thủ tục là ứng mua VLXD, do có sự chênh lệch giữa giá công bố và giá thực tế lại không cách nào điều chỉnh được giá nên các nhà thầu đều “im lặng” không dám ứng. Thực tế, hiện có khoảng 5 doanh nghiệp làm đơn trả lại các dự án sau khi đã trúng thầu, do giá VLXD tăng cao, chưa có mặt bằng thi công…

“Việc giá cả VLXD tăng cao có nhiều yếu tố cộng hưởng, trữ lượng mỏ đất, cát, đá ít; giá xăng dầu tăng, cước vận chuyển tăng, xe tải phải cắt cơi thành thùng. Doanh nghiệp chồng chất khó khăn, lỗ thật lãi giả, vừa chống chọi xong dịch bệnh lại đến cơn bão giá. Ngoài ra, việc cơ quan chức năng làm gắt về mặt hóa đơn, chứng từ, nguồn gốc mỏ cũng là vấn đề làm giá VLXD tăng cao trong thời gian qua. Hiện nay, chúng tôi đang vận động các doanh nghiệp chia sẻ với chủ đầu tư trong lúc này, vì nếu tổ chức đấu thầu lại các gói nhà thầu trả lại sẽ ảnh hưởng đến tiến độ, đội giá vì tăng chi phí đầu tư, làm phá vỡ kế hoạch thực hiện các dự án đầu tư công ”, ông Hưng nói.

Tỉnh Thanh Hóa cần làm rõ việc công bố giá VLXD với giá thực tế để đi đến thống nhất công bố giá cho đúng với diễn biến tình hình ở địa phương. Ảnh: VT

Ông Mai Đình Thủy, Giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện Quảng Xương cho hay: Lâu nay, đơn vị thực hiện việc đấu thầu, một là chọn gói, hai là điều chỉnh giá. Đối với hợp đồng chọn gói, đơn giá đều cố định hết, nên thời gian vừa qua, chúng tôi cũng nhận được nhiều ý kiến phản ánh của doanh nghiệp “kêu” về đơn giá Nhà nước đưa ra thấp hơn so với giá thực tế thị trường. Việc các doanh nghiệp kêu khó khăn là có thật, tuy nhiên, về mặt quản lý Nhà nước, chúng tôi vẫn phải đốc thúc tiến độ công trình. Mặc dù rất chia sẻ với khó khăn thực tế này của các nhà thầu, nhưng khi thanh toán, chúng tôi vẫn phải căn cứ vào thông báo giá hàng quý của liên sở: Xây dựng và Tài chính. “Một số đơn vị vẫn cầm cự được, vẫn xuất hóa đơn đất đắp theo đúng quy định, thế nhưng có thể càng làm càng lỗ và nguy cơ các doanh nghiệp phá sản lúc nào không biết. Chúng tôi cũng không đủ chức năng xác minh hóa đơn, chứng từ mua bán VLXD của các nhà thầu do bên bán cung cấp là đúng hay sai nên không có căn cứ để kiến nghị lên cấp trên. Gần đây, khi đơn vị tổ chức đấu thầu các gói thầu thấy nhiều đơn vị quan tâm, nhưng khi đấu thầu thực tế thì lại không thấy tham gia”, ông Thủy nói.

Lý giải về việc liên sở: Xây dựng và Tài chính công bố giá VLXD thấp hơn so với giá thị trường, ông Phan Lê Quang, Phó Giám đốc phụ trách Sở Xây dựng nói: Đúng là có việc các ban quản lý dự án đều dựa vào giá công bố của liên sở: Xây dựng và Tài chính để xây dựng giá gói thầu, làm căn cứ tổ chức đấu thầu, ký kết hợp đồng, thanh toán, nghiệm thu các công trình có sử dụng vốn Nhà nước. Việc Sở Xây dựng công bố giá dựa trên các tài liệu, thông tin, giá các mỏ cung cấp, hóa đơn ở các địa phương gửi về. Tuy nhiên, mỗi mỏ đất, đá, cát gửi giá đều khác nhau, nhưng liên sở: Xây dựng và Tài chính không có công cụ nào để đánh giá mà chỉ dựa vào thông tin từ các huyện gửi về làm độ tin cậy để công bố, mặc dù biết giá cung cấp của các huyện gửi về thấp hơn so với giá thị trường. Việc giá VLXD công bố thấp hơn giá thị trường, chúng tôi cũng nhận được phản ánh nhiều, HĐND cũng đã chất vấn về vấn đề này. Hiện nay, câu chuyện giá VLXD không chỉ là của ngành Xây dựng, Tài chính hay tài nguyên nữa mà là của chung toàn tỉnh.

“Tới đây, các mỏ VLXD đất, đá, cát đều phải thuộc diện kê khai giá. Để làm được việc này sẽ phải khảo sát, lấy thông tin về giá, các cơ quan quản lý Nhà nước, công an phải vào cuộc minh bạch trong giá đất, đá, cát. Bên cạnh đó, tỉnh phải chỉ đạo ngành Tài nguyên lập quy hoạch, tổ chức đấu giá các mỏ đã quy hoạch theo các vùng miền để tăng nguồn cung cho các công trình. Công bố giá cũng chỉ là một kênh, trường hợp không có công bố giá thì các chủ đầu tư nên dựa trên báo giá thực tế, khảo sát giá, thuê đơn vị thẩm định giá và phê duyệt gửi về Sở Xây dựng công bố giá cho khách quan. Tuy nhiên, phương án này không đơn vị nào dám làm vì sợ sai, sợ vướng vào vòng lao lý. Bên cạnh đó, để giải quyết được tình trạng này cần có cơ chế đặc thù cấp trực tiếp mỏ VLXD cho các công trình, dự án, khi làm xong thì đóng cửa mỏ. Làm được việc này thì mới có thể minh bạch về giá”, ông Quang đưa ra giải pháp.

Theo tìm hiểu được biết, gần đây, Tinh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa đã chỉ đạo các ban, ngành chức năng tìm cách tháo gỡ vướng mắc về giá VLXD trên địa bàn. Tuy nhiên, đến nay đã hết quý I năm 2023 vẫn chưa tìm được giải pháp cho đúng với diễn biến thực tế về giá VLXD trên địa bàn, để công bố cho sát với giá thị trường.

Báo Thanh tra sẽ tiếp tục thông tin đến bạn đọc.

Ý kiến bình luận:

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!

Tin cùng chuyên mục

Đền bù kéo dài 18 năm vì ngân sách hạn chế?

Đền bù kéo dài 18 năm vì ngân sách hạn chế?

(Thanh tra) - Tại văn bản trả lời Báo Thanh tra, UBND thành phố Thủ Đức cho biết đã thực hiện theo đúng phương án, chính sách và quy định của pháp luật khi thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ. Trong khi đó, người dân có đất bị thu hồi cho rằng bồi thường đất năm 2024 nhưng áp dụng đơn giá theo phương án năm 2006 là không thỏa đáng.

Minh Nghĩa - Đình Thanh

20:19 06/12/2024

Tin mới nhất

Xem thêm