Ca khúc: Tự hào người làm báo Thanh tra

Theo dõi Báo Thanh tra trên

Lam Kinh - Địa linh, nhân kiệt

Thứ ba, 05/02/2013 - 09:59

(Thanh tra) - Khu Di tích lịch sử Lam Kinh thuộc địa bàn xã Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa là nơi “địa linh, nhân kiệt”, quê hương của Anh hùng Dân tộc Lê Lợi, nơi phát tích cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh trong 10 năm đầy gian khổ (1418 - 1427) và cũng là nơi an nghỉ vĩnh hằng của các vương hậu thời Lê Sơ.

Khu Di tích lịch sử Lam Kinh. Ảnh: Văn Thanh

Từ việc dựng Điện Lam Kinh   

Sau cuộc khởi nghĩa thắng lợi vào mùa Xuân năm 1418, ngày 15/4/1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ở Đông Đô (Thăng Long - Hà Nội), lấy niên hiệu Thuận Thiên, đặt tên nước là Đại Việt. Vương triều Hậu Lê kéo dài 360 năm.

Kế nghiệp vua Lê Thái Tổ, vua Lê Thái Tông sau khi lên ngôi đã tiếp tục cho xây dựng Điện Lam Kinh. Ban đầu, Điện Lam Kinh được xây dựng với quy mô nhỏ, tính chất chủ yếu là khu “sơn lăng” (nơi an táng, thờ cúng Tổ tiên và các vua, hoàng hậu thời Lê Sơ). Sau này, để phục vụ cho vua và hoàng tộc mỗi khi về thăm quê hương, bái yết sơn lăng, qua thời gian Điện Lam Kinh dần dần được mở rộng về quy mô to lớn và bề thế.

Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, sau khi nhà vua qua đời ngày 22 tháng Chạp năm Quý Sửu (1433) được đưa từ Thăng Long về an táng ở Vĩnh Lăng. Sau khi lên ngôi được 3 tháng vua Lê Thái Tông “cùng các quan theo hầu về Tây Kinh dựng điện Lam Sơn”. Điện miếu Lam Sơn ban đầu được xây dựng vào tháng 12 năm Quý Sửu (1433), sau đó thì bị cháy. Đến thời vua Lê Nhân Tông, Điện Lam Kinh được xây dựng lại với quy mô lớn hơn. Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi: “Tháng 9/1448 vua xuống chiếu chi Thái úy Lê Khả Đốc cục bách tác làm miếu điện ở Lam Kinh. Sau 6 tháng miếu Điện Lam Kinh làm xong, sai Hàn lâm thị độc Hoàng Thanh làm lễ tấu cáo”.

Ở Lam Kinh nhìn về phía trước có sông Chu, lại có núi Chủ Sơn xa xa làm tiền án, sau lưng phía Bắc dựa vào núi Dầu ở thế hậu chẩm. Phía Đông (bên tả) có rừng Phú Lâm và núi Ngọc liên hoàn lượn hình tay ngai che chắn; dải núi Hướng và núi Hàm Rồng cũng lượn vòng phía Tây, tạo thành thế long ngai bên hữu. Vùng địa linh này có núi sông kỳ thú, thực sự là sơn thủy hữu tình.

Khu Di tích lịch sử Lam Kinh nổi tiếng bởi còn lưu giữ được quần thể các khu lăng mộ và bia ký của các vua và hoàng hậu gồm: Vĩnh Lăng (Lăng Lê Thái Tổ); Hựu Lăng (Lăng Lê Thái Tông); Chiêu Lăng (Lăng Lê Thánh Tông); Kính Lăng (Lăng Lê Túc Tông). Đặc biệt, Lăng Thái tổ Cao Hoàng Đế được đặt ngay phía Bắc khu thành điện; bia Vĩnh Lăng có họa tiết hoa văn tinh xảo, còn lưu mãi tuyệt bút của danh nhân Nguyễn Trãi.

Đến lễ hội của người xứ Thanh


  Hằng năm đã thành tục lệ, các vua, con cháu trong Hoàng tộc, các đại thần đều từ Đông Kinh trở về đất tổ Lam Sơn (Tây Kinh) để thăm viếng, bái yết sơn lăng. Đó cũng chính là những ngày lễ hội tưng bừng trọng thể của nhân dân vùng Lam Sơn nói riêng, nhân dân Thanh Hóa nói chung lúc bấy giờ. Khi đó, nhân dân đổ ra mừng đón nhà vua và đoàn tùy tùng, trai gái đua nhau hát rí ren ở Hành tại. Tục hát rí ren một bên là con trai, một bên là con gái dắt tay nhau hát, hoặc chéo chân, chéo cổ nhau gọi là cắm hoa kết hoa.

Lễ hội Lam Kinh xưa theo nghi thức triều đình Nhà Lê, không giống bất cứ lễ hội dân gian nào của người dân xứ Thanh. “Lễ chi nghi” trong lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chỉ gọi là “lễ” chứ không gọi là lễ hội. Gọi là “lễ hội Lam Kinh” bởi vì những kỳ nhật tế lễ ở Điện Lam Kinh vào thời Lê thực chất đã cuốn vào hội hè suốt cả tháng trời ròng rã như đón rước xa giá của nhà vua, của các thân vương, các quan đại thần cùng các vương tôn công tử.
 

Suối Ngọc ở Khu Di tích lịch sử Lam Kinh. Ảnh: Văn Thanh

Theo các tài liệu nghiên cứu, lễ hội Lam Kinh vào các năm chẵn, đích thân hoàng đế về bái yết vong linh tiên tổ, cẩn cáo trời đất cầu xin cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, được coi là quốc lễ. Lễ hội Lam Kinh xưa tích hợp nhiều giá trị lịch sử văn hóa và nhân văn cần được bảo tồn, làm giàu và phát huy giá trị để phục vụ cho cuộc sống hôm nay.

Ngày nay, lễ hội Lam Kinh thường được tổ chức vào 21, 22, 23 tháng 8 Âm lịch, nhằm khơi dậy nét đẹp truyền thống văn hóa, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao tinh thần đoàn kết, phấn đấu xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Năm nào cũng vậy, phần lễ chính được tổ chức thành kính và tôn nghiêm, đặc biệt là lễ rước kiệu vua Lê Thái Tổ về sân Điện Lam Kinh. Tại các đền thờ, các tòa miếu, lăng mộ khu di tích tổ chức tế lễ theo nghi thức cổ truyền. Phần hội có chương trình nghệ thuật sân khấu hóa; tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch, các trò chơi, trò diễn dân gian ở các địa phương gắn với lễ hội, tổ chức các môn thể thao dân tộc …
     
Theo ông Trịnh Đình Dương, Trưởng Ban Quản lý Khu Di tích Lam Kinh, năm 2012 đã có tới 70.000 du khách thập phương đến thăm Lam Kinh, tăng hơn so với các năm trước, trong đó có cả khách nước ngoài, chưa kể khoảng 100.000 khách về dự chính hội Lam Kinh. Hầu hết du khách về thăm Lam Kinh đều thích thú, để lại ấn tượng tốt đẹp. “Tuy nhiên, để du khách biết đến Lam Kinh ngày một nhiều hơn thì cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền đến người dân về ý nghĩa và giá trị lịch sử của di tích gắn với hệ thống địa danh trọng điểm ở xứ Thanh và trong cả nước. Có như thế, Di tích Lam Kinh mới thực sự là điểm đến hấp dẫn của du khách”, ông Dương nói.


Văn Thanh

Ý kiến bình luận:

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!

Tin cùng chuyên mục

Quảng Trị: “Gã khùng” giữ kỷ vật chiến tranh để nói về hòa bình

Quảng Trị: “Gã khùng” giữ kỷ vật chiến tranh để nói về hòa bình

(Thanh tra) - Bị nhiều người gọi là “gã khùng” vì dành phần lớn cuộc đời để gom nhặt bom, đạn, vỏ pháo và những thứ bị xem là phế liệu, ông Ngô Duy Duyệt vẫn lặng lẽ theo đuổi công việc mà mình cho là cần phải làm. Ngay bên tuyến đường ven biển Quảng Trị, ông dựng nên một điểm trưng bày kỷ vật chiến tranh, không vé vào cổng, mở cửa cho bất cứ ai muốn bước vào xem.

Minh Tân

10:00 20/12/2025

Tin mới nhất

Xem thêm