Theo dõi Báo Thanh tra trên
Thứ tư, 02/02/2011 - 13:39
(Thanh tra)- 20 năm trước đây (1991), Nguyễn Hữu Đàn đã viết xong tiểu thuyết “Bi kịch mái trường”. Cuốn sách được truyền tay nhau và gây ấn tượng khó quên.
Không cầu kì, nhưng bám sát vào hiện thực cuộc sống, tác giả đã thµnh công ở sự lựa chọn kiểu nhân vật. Mỗi nhân vật có diện mạo, cá tính riêng quyết định toàn bộ cốt truyện. Nguyễn Hữu Đàn không để tâm mấy vào sự phát triển của cốt truyện mà tự nhân vật chi phèi toàn bộ tình tiết, sự kiện trong tác phẩm. Sự thành công này chứng tỏ nhà văn vừa am hiểu sâu sắc, vừa có khả năng tích luỹ, tự đối thoại để thổi hồn vào nhân vật. Số lượng nhân vật không nhiều. Gấp sách lại, người ta vẫn nhớ tới một Đậu Phụng Quốc (Hiệu trưởng), Bí thư Đoàn trường Đức Công, giáo viên dạy môn Ngữ văn Ngân Xuyên và Trung Cao, Bí thư Chi bộ Hàn, nhân viên thư viện Nghiêm Linh, một vài giáo viên khác. Không gian và thời gian chỉ chñ yÕu xoay quanh trường 3 cấp Đại Thắng trong 1 năm học. Sự kiện không nhiều. Đáng lưu ý là trường đoạn đón đoàn cán bộ T.Ư về thăm và 1 kì thi tốt nghiệp.
Đậu Phụng Quốc được giới thiệu ngay ở chương 1. Từ thầy giáo Quốc dạy a, b, c cho học trò lớp vỡ lòng (theo cách gọi ngày ấy) đã trở thành “ông quan giáo dục” có cỡ. Ở nhà tầng TP, đi xe con. Dưới tay ông có biết bao nhiêu người phụ tá, quyền sinh, quyền sát trong tay.
Giọng văn đôi lúc khôi hài, hóm hỉnh: “Ơn trời! Các loại người bu quanh ông phải biết. Từ khi ông có danh sách kế cận ở sở, ông ít nói hẳn đi. Trước ông là giáo viên Toán, nhưng không phải là ít nói. Đời là phải nói. Nói nhiều hơn làm. Người ta mới biết công cho mình. Không người ta quên. Quan lại càng hay quên! Vì nhiều việc. Quan trên thì không biết đến mà cấp dưới thì thằng nào dám ho he. Cũng chẳng có lí nào để bắt bẻ và đòi hỏi quan phải nhớ công việc cho dân tình cả… Trên tha hồ dạy, ban phát lời dạy, mệnh lệnh, dưới lại ban phát cho dưới nữa. Dân cứ thế mà làm! Dân của giáo dục là học sinh mà phục vụ chúng nó là phụ huynh! Ai không có con cháu đi học? Ai không muốn mở mày, mở mặt với hàng xã, hàng huyện, hàng tỉnh khi có con học vấn cao…? Thế là cả làng Mà biết và kết thân với thầy giáo Quốc”. (Chương 1, trang 5 và 6).
Thế rồi, trong những ngày cả làng Mà chống chiến tranh phá hoại của giặc Mĩ, thầy giáo Quốc đã lên Hiệu trưởng cấp 1. Mọi báo cáo của thầy đều được cấp trên tin. Mọi chỉ thị của thầy đều được giáo viên và học sinh chấp hành răm rắp. Khi được báo cáo cho Tỉnh uỷ, bao giờ thầy cũng ca ngợi sự lãnh đạo của cấp trên, vài nét về khó khăn của địa phương tưởng chừng không thể khắc phục được. Đùng một cái, như có phép lạ, thầy đã cùng địa phương tháo gỡ và lập kì tích. Tài của thầy người ta sùng bái, ca ngợi là tự học, giải được 3 bài toán khó nhất của quốc tế. Người ta cho thầy là thần đồng! Thần đồng về Toán pháp. Sự thật về con người này như thế nào? Ta hãy nghe nhà toán học lừng danh này báo cáo: “Từ một anh giáo a, b, c rồi học 7 + 3, nay tôi đã hàm thụ xong đại học môn Toán - Lý do Sở mở. Thế rồi trao đổi thư từ với Viện sĩ Nốc-hin Thuỵ Điển, Viện sĩ Tô-mát Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và Tai-ta ở Liên Xô. Kính thưa các vị đại biểu! Thưa các đồng chí! Ai trong chúng ta đã từng nghe, đã biết 3 bài toán khó của một nhà Toán học tuổi trẻ được úp trong một cái chuông vàng ở một viện hàn lâm lớn nhất thế giới… Từ đó đến nay chưa ai giải nổi. Dạ đó là 3 bài toán hóc búa của thế kỉ. Các bậc thầy về Toán pháp khuyên tôi đừng động đến nó. Cứ như trong đó có hổ, báo, yêu quái không bằng… Thế mà… Thế mà, hết sức phấn khởi các đồng chí ạ, tôi đã tìm ra con đường giải cả 3 bài, cả 3 bài… Sắp tới, tôi sẽ được đi trình bày trước các nhà Toán học quốc tế. Tôi cho rằng, cũng như cuộc chiến đấu anh hùng này, biết bao điều kì diệu dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đã và đang nảy nở, phát triển. Tôi là một hạt mầm trong thùng thóc giống đã được đem gieo” (chương 1, trang 9, 10, 11).
Thật khoác lác. Một thầy giáo có trình độ 7 + 3 được đi hàm thụ cao đẳng Toán - Lý do Sở Diáo dục mở thì trình độ như thế nào ta đều biết.
Người đọc nhận ra Đậu Phụng Quốc chỉ có tài khoác lác, bịp cấp trên, loè cấp dưới và nịnh nọt cũng vào loại nhất. Quốc được tiếp Trưởng Ban Thanh tra Bộ. Ta hãy nghe Quốc nói: “Ồ xin đội ơn anh! Chúng tôi phải đúc tượng vàng cho anh mới xứng! Chính anh đã làm cho Bộ và cấp trên thấy được sự thật và còn nhiều khuyết điểm của chúng tôi. Đảng uỷ và nhân dân xã này không dám quên ơn anh”! Rồi Quốc nói rất nhỏ: “Dạ! Bộ xa lông này có khắc chạm tên anh phía sau viết tắt chữ cái”. (Chương 12, trang 200).
Chưa đủ, anh ta còn có tài làm nốc ao những ai giành quyền với mình. Ta hãy nghe Phụng Quốc nói với Hiệu trưởng Hãn và Trung Cao đã bị Quốc đẩy đi đến một trường hẻo lánh khi Quốc là Giám đốc Sở Giáo dục: “Thầy Trung Cao nghe kĩ để mà viết báo nhé! Giáo dục đâu đâu cũng xuống cấp nghiêm trọng trừ cái trường mà thầy đố kị với nó, coi đó là một quái thai (muốn nhắc tới trường 3 cấp Đại Thắng) ha, ha… Đi một đàng học một sµng khôn là như vậy! Các thầy! Kể cả thầy Hãn, không phải là không khôn, nhưng mà rất có thể đã đi trước chúng tôi quá xa. Mô hình của các thầy khác xa với mô hình của tôi. Cái tôi làm là Đảng cần, người lãnh đạo cần. Ngày trước tôi suýt bị thầy Hãn đây lật bay chỉ vì một chút quan hệ nam nữ. Nhưng thầy quên mất rằng tôi đã có kinh nghiệm lật đổ 2 vụ tương tự trước khi về làng Mây làm Hiệu trưởng. Ha, ha… hiểu nhau thế thôi! Đừng giận nhau lâu mà tổn thọ! Phải hỗ trợ nhau mà sống! Phải có “dây”, có “ô” mới ngoi lên được trong thời buổi làm ăn khó khăn này! Hồi thầy Hãn về đây là có sự thu xếp của tôi đấy nhớ. Chắc mấy ông tổ chức có nói lại. Tôi mà giúp ai đúng mười năm mới nói lại. Khiếp chưa? Thôi tạm biệt…”. (Chương 13, trang 220, 221).
Nhân vật Đậu Phụng Quốc của Nguyễn Hữu Đàn mang đầy tính bi kịch. Bi kịch trong tiểu thuyết này còn mang tính dự báo. Bệnh thành tích, thi cử không nghiêm túc, ô, dù, tham nhũng trong ngành Giáo dục là vấn đề nhức nhối làm đau lòng những ai còn quan tâm tới giáo dục nước nhà. Trên lĩnh vực này, Nguyễn Hữu Đàn rất dũng cảm và thực sự là người cầm bút kết hợp giữa cái tài và cái tâm trong sáng.
Nhân vật Đức Công, Bí thư Đoàn trường, sau này, khi Phụng Quốc lên Giám đốc Sở, được bổ nhiệm chức Hiệu trưởng trường 3 cấp Đại Thắng... Thầy nào, trò ấy, Đức Công có nhiều điểm giống Phụng Quốc. Nhân vật này góp phần làm cho bi kịch càng trở nên trầm trọng hơn.
*
* *
Những ai tâm đắc với những giờ dạy say mê của mình hẳn không thể quên nhân vật Trung Cao. Một quân nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu trở về học Đại học Sư phạm, tốt nghiệp được nhận công tác dạy ở trường, sát nách quê hương. Thầy Trung Cao chỉ còn mang hết sự hiểu biết của mình để đào tạo những lớp người trẻ tuổi, tiếp nối cha anh, xây dựng quê hương ngày càng giầu đẹp. Những con người như Trung Cao đã được thử thách qua bom đạn, giáp mặt giữa cái sống và cái chết thì có khó khăn nào mà anh không vượt qua. Nhưng, thực tế, Trung Cao không vượt qua được rào cản. Đó là sự ngáng trở của lãnh đạo nhà trường. Bởi tính tình anh thẳng thắn, trung thực. Anh dễ bất bình với những hành vi sai trái của lãnh đạo và cũng dễ mắc vào bẫy của họ. Một con người giầu tâm hồn, lại có nghị lực, dám nói thẳng, vạch những sai trái của bất cứ người nào cho dù đó là lãnh đạo. Anh đã không được kết nạp Đảng cũng vì lí do đấy. Đấu tranh cho lẽ phải nhiều khi không biết tránh vào đâu.
Người bạn đồng nghiệp tâm đắc, người anh yêu thiết tha, cháy bỏng là Ngân Xuyên đã nhiều lần khuyên anh không nên đấu tranh, nên nghe theo họ để được kết nạp vào Đảng, anh cũng không nghe. Anh vẫn chịu sự phân công của nhà trường, tích cực trong công tác chuyên môn, đạt giáo viên dạy giỏi của toàn tỉnh. Anh chỉ huy xưởng mộc của nhà trường làm việc hết mình. Nhưng, có ai biết nỗi xót xa trong lòng Trung Cao. Bi kịch tinh thần của người trí thức nhiều lúc không nói ra được. Anh lại phải sống với những kẻ cơ hội, khoác lác, bịp bợm, nịnh trên, nạt dưới. Cái đầu của họ rỗng tuyếch nhưng lúc nào cũng tỏ ra hơn người khác, làm sao anh không buồn.
Số phận của Trung Cao, Ngân Xuyên lại phải đương mặt với những gì xúc phạm tới tâm hồn, tới nhân cách làm sao khỏi đau khổ. Bi kịch nội tâm của những trí thức đời mới còn ở chỗ đó. Trung Cao bị chuyển về một trường vừa học vừa làm trong huyện miền núi heo hút, cơ sở vật chất tuyềnh toàng, học sinh bỏ một nửa. Những ngày mưa bão, lụt lội, người ta cho cả trâu vào bất cứ phòng nào kể cả phòng Hiệu trưởng. Đến thăm những trường học rẻo cao, ta đều nhận ra cơ sở vật chất và số lượng học sinh... mới thấy cách miêu tả, khắc họa thật nét. Không biết đến bao giờ các trường học ở vùng xa xôi hẻo lánh mới thực sự khang trang như người ta mong ước?
Bệnh hình thức cũng là một bi kịch. Cảnh đón đoàn khách T.Ư về thăm trường 3 cấp Đại Thắng được miêu tả không nhiều nhưng gây ấn tượng đặc biệt: “Hơn 10 giờ xe mới đến. Thật khốn cho dân quê, thấp thỏm ra đón để đội trưởng ghi tên, từ lúc sáu giờ. Trời nắng, nhưng đường không vì thế mà ít bùn đi. Con đường liên hương vốn lầy sục càng lầy sục. Có lẽ leo lên bụi tre như khỉ lại dễ đi hơn. Người lớn cờ quạt đủ cả, nhưng nào có phất được đâu. Rõ khổ con đường như muốn hành hạ người về và cả người đón nữa… Nắng mồ hôi đã bắt đầu tác quái. Học sinh đã bất chấp lệnh cấm đội mũ nón lên đầu. Dĩ nhiên trước đông đủ quan khách các thầy cô giáo từ cấp 1 đến cấp 3 đều phải tươi cười, nhưng trong bụng thì bực bội lắm” (chương 11, trang 186). Biết bao băng cờ, khẩu hiệu căng lên. Nhưng tất cả chỉ là hình thức. Nào ai có biết cái vỏ bên trong của nó như thế nào? Khi học sinh được đoàn tham quan phỏng vấn, không trả lời đúng ý thầy Hiệu trưởng đã bố trí, ta hãy nghe Đậu Phụng Quốc gầm rú, chửi bới Trung Cao: “Tôi lừa người ta đã lắm, giờ còn bị anh lừa ư? Sao anh không hướng dẫn học sinh nói theo sự chuẩn bị của tôi? Sao không có một kế hoạch, một biểu mẫu nào để giới thiệu với đoàn? Toàn là một lũ ngớ ngẩn, nói những câu ngớ ngẩn. “Dạ! Học xong em sẽ làm bất cứ việc gì Tổ quốc cần”. Người ta hỏi lại: Thế còn nghề mộc mà em được chuyên tâm đào tạo và đã có tay nghề? Thế là tịt luôn” (chương 14, trang 256). Bệnh thành tích dẫn đến những sự tình nhiều khi cười ra nước mắt.
Kết thúc tiểu thuyết là sự kiện thi tốt nghiệp. Ba trường vừa học vừa làm thi chung một địa điểm. Toàn dân đi thi. Không biết tự đâu mà thi cử bị phá vỡ những luật lệ vốn được tôn thờ từ thời xưa. Lời của một phụ huynh đưa con đi thi: “Dân huyện ta hiếu học nhất. Tui chưa thấy nơi mô hiếu học bằng! Bữa ni là toàn dân đi thi! Nghỉ gặt để đi thi. Lúa chưa trục rồi về lại trục chứ có ai làm tranh, làm cướp đi mô. Cả làng, cả xóm, ai đi thi cũng đậu mà con mình trượt thì đâm đầu vô gốc tre mà chết cho rảnh việc”! (Chương 14, trang 244). Thật bi quan, chán chường cho việc học hành, thi cử. Đây chỉ là một chi tiết nhỏ Nguyễn Hữu Đàn ghi lại: “Ba người cảnh sát khi đã có bài làm thì bỏ mặc nhiệm vụ. Họ vượt qua trước mắt Chủ tịch Hội đồng Thi, Trưởng ban Tuyên giáo Huyện uỷ dễ dàng và không để ý nhào vào đoàn người ồ ạt và leo lên cửa sổ… dúi bài cho người nhà” (chương 14, trang 250). Một số người còn chạy vào tận cửa phòng thi trêu ghẹo cả Thanh tra Sở, bất chấp cả pháp luật: “Thầy im đi cho các em làm bài! Chúng tôi vào bảo vệ các thầy. Ủng hộ thi đấy chứ! Công an họ cũng bận như chúng tôi” (chương 14, trang 251). Thật nhốn nháo, ô hợp. Phản ánh không khí một kì thi, tác giả như đưa ra lời cảnh báo. Thực chất là bi kịch về tuyển chọn nhân tài cho đất nước.
Gấp lại trang cuối cùng của cuốn tiểu thuyết, người đọc không khỏi bàng hoàng trước việc học hành thi cử của nước nhà trong quá khứ và có cả trong hiện tại. Làm thế nào để những bi kịch do chính con người gây ra sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi? Thiết nghĩ, câu hỏi ấy không chỉ dành cho một nhóm người mà cho cả xã hội. Cái hay của cuốn tiểu thuyết còn ở cách đi sâu vào tâm trạng nhân vật để mỗi kiểu nhân vật tự bộc bạch bằng thứ ngôn ngữ nội tâm. Không phải cây bút nào thời hiện đại này cũng có được!
Mão Điền, ngày cuối năm 2010
NGƯT Nguyễn Khắc Đàm
Ý kiến bình luận:
Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!
(Thanh tra) - Những năm qua, huyện Mường Khương đã triển khai nhiều biện pháp nâng cao vai trò, trách nhiệm của cộng đồng đối với việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc. Qua đó, đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi.
Nam Dũng
14:20 11/12/2024(Thanh tra) - Thông tin từ Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch (VHTTDL) cho biết, nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày Thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2024), 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2024), Bộ VHTTDL, UBND tỉnh Cao Bằng, Tổng cục Chính trị giao Trung tâm Triển lãm Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức triển lãm “Quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng”.
Thái Hải
20:29 10/12/2024TC
19:05 10/12/2024Nguyễn Điểm
18:00 10/12/2024Thái Hải
11:36 10/12/2024TC
23:39 09/12/2024Bùi Bình
Hải Hà
Phương Anh
Lê Phương
Văn Thanh
Chính Bình
Theo VietinBank
Theo EVNNPC
Theo VietinBank
Thu Hương
Theo EVNNPC
Theo EVNNPC