Nội dung thanh tra gồm việc cấp phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (vật liệu san lấp) để cung cấp cho dự án thành phần đầu tư xây dựng đoạn Vĩnh Hảo - Phan Thiết, dự án thành phần đầu tư xây dựng đoạn Phan Thiết - Dầu Giây, dự án đầu tư xây dựng cầu Mỹ Thuận 2 và đường dẫn 2 đầu cầu. Các địa phương có liên quan là Bình Thuận, Đồng Nai và Đồng Tháp.

Dự án thành phần đầu tư xây dựng đoạn Phan Thiết - Dầu Giây do Bộ Giao thông Vận tải làm chủ đầu tư (Ban Quản lý dự án Thăng Long), đi qua địa bàn các huyện Hàm Thuận Nam, Hàm Tân thuộc tỉnh Bình Thuận và Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, Thống Nhất, TP Long Khánh thuộc tỉnh Đồng Nai, với tổng chiều dài là 99km.

Theo hồ sơ thiết kế kỹ thuật chi tiết và dự toán dự án, nhu cầu sử dụng vật liệu san lấp tại dự án là 3.911.000m3 đất. Nguồn cung cấp thuộc 5 khu mỏ trên địa bàn các huyện Xuân Lộc, Cẩm Mỹ và TP Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

Để đáp ứng kịp thời, đầy đủ nguồn vật liệu san lấp chỉ dành riêng cho việc thi công đường cao tốc Phan Thiết - Dầu Giây, trên cơ sở khảo sát, đề nghị ban quản lý dự án và các sở, ngành, địa phương, UBND tỉnh Đồng Nai đã thống nhất cho phép thực hiện 4 phương án hạ cote nền, cải tạo đất nông nghiệp kết hợp thu hồi vật liệu san lấp phục vụ thi công dự án.

Ngoài các khu vực được phép thu hồi vật liệu san lấp cung cấp cho dự án nêu trên, qua xem xét hồ sơ cấp phép của 6 mỏ đá có cung cấp cho dự án (các mỏ đá đã được cấp phép trước đây, nhà thầu tự hợp đồng mua đá với đơn vị khai thác), Thanh tra Chính phủ nhận thấy, UBND tỉnh Đồng Nai ban hành 2 quyết định gia hạn giấy phép khai thác đá; 1 quyết định điều chỉnh diện tích và tăng thời hạn khai thác đá, không đúng quy định tại khoản 1 Điều 84 Luật Khoáng sản năm 2010. Cụ thể:

Quyết định số 4421/GP-UBND ngày 8/12/2017 gia hạn giấy phép khai thác tại mỏ đá Soklu 1 tại xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất cho Công ty TNHH Quốc Phú Sơn Lâm với thời hạn 10 năm, tính từ ngày 1/11/2017 trong khi công ty chỉ được cấp phép khai thác đến ngày 18/12/2017.

Quyết định số 1523/QĐ-UBND ngày 11/7/2017, điều chỉnh giấy phép khai thác mỏ đá Soklu 2 tại xã Quang Trung, huyện Thống Nhất, từ Công ty TNHH MTV Xây dựng và Sản xuất Vật liệu Xây dựng Biên Hòa qua Công ty Cổ phần Xây dựng và Sản xuất Vật liệu xây dựng Biên Hòa và tăng thời hạn khai thác từ 6,2 năm lên 12 năm 1 tháng kể từ ngày 23/3/2011, trong khi giấy phép cấp cho Công ty TNHH MTV Xây dựng và Sản xuất vật liệu xây dựng Biên Hòa đã hết thời hạn khai thác.

Công ty TNHH Xây dựng và Sản xuất Vật liệu Xây dựng Biên Hòa được khai thác tại mỏ đá xây dựng Soklu 5 thuộc xã Quang Trung, huyện Thống Nhất theo Quyết định số 2269/QĐ-UBND ngày 1/9/2010 với thời hạn khai thác đến ngày 31/12/2016.

Tuy nhiên, đến năm 2014 và 2020, UBND tỉnh ban hành Giấy phép khai thác số 4018/GP-UBND ngày 22/12/2014 (thay thế cho Quyết định số 2269/QĐ-UBND) và số 177/QĐ-UBND ngày 7/7/2020 (thay thế cho Giấy phép số 4018/GP-UBND). Qua đó, tăng diện tích khu vực hoạt động khoáng sản từ 23ha lên 30,5ha và tăng thời hạn khai thác lên 11 năm 6 tháng tính từ ngày 1/1/2014 (đến 30/6/2026).

Cả 3 trường hợp trên đều không được UBND tỉnh xác định khai thác để cung cấp cho công trình sử dụng vốn ngân sách Nhà nước và các công trình theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 22 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP của Chính phủ.

Theo Thanh tra Chính phủ, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến vi phạm trên là do việc áp dụng quy định pháp luật của UBND tỉnh Đồng Nai và Sở Tài nguyên và Môi trường chưa chính xác. Trong đó có nguyên nhân khách quan do Luật Khoáng sản năm 2010 có quy định về việc các giấy phép đã cấp trước ngày 1/7/2011 được hoạt động khai thác đến hết thời hạn ghi trong giấy phép, nhưng không có hướng dẫn thi hành cụ thể…

Việc cấp phép đã dẫn đến một khối lượng đá được khai thác và cung ứng ra ngoài thị trường, mặc dù đơn vị khai thác đã nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và các loại thuế, phí theo quy định, nhưng vi phạm cần được xem xét, làm rõ để có biện pháp xử lý phù hợp theo quy định.

Thanh tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng Chính phủ Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai tổ chức kiểm điểm làm rõ trách nhiệm. Qua đó, xem xét, xử lý phù hợp theo quy định đối với các tập thể, cá nhân có khuyết điểm, vi phạm trong việc cho phép thu hồi vật liệu san lấp cung cấp cho dự án cao tốc Phan Thiết - Dầu Giây, việc gia hạn giấy phép không đúng quy định, việc cấp phép khai thác đá tại khu vực mỏ đã khoanh định thuộc khu vực không đấu giá quyền khai thác nhưng không chỉ định cung cấp cho các công trình theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 22 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP của Chính phủ.

Qua quá trình kiểm điểm, xử lý, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì chuyển Cơ quan Cảnh sát Điều tra xem xét theo thẩm quyền.

Bài 2: Vi phạm trong gia hạn, cấp giấy phép khai thác cát

Cảnh Nhật - Thu Huyền