Tại hội thảo, chủ nhiệm đề tài đã giới thiệu khái quát tính cấp thiết, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu và những nội dung nghiên cứu.

Theo chủ nhiệm đề tài, cơ sở dữ liệu khoa học là một hệ thống lưu trữ thông tin chuyên biệt dành riêng cho mục đích nghiên cứu và phân tích trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Cơ sở dữ liệu khoa học đóng một vai trò quan trọng và đa dạng trong quá trình nghiên cứu khoa học, trong đó nổi bật là tài liệu tham khảo; tìm kiếm thông tin; phân tích và tổng hợp dữ liệu; theo dõi xu hướng và phát triển mới; hỗ trợ quyết định nghiên cứu.

“Cơ sở dữ liệu khoa học về thanh tra, khiếu nại, tố cáo (KNTC), tiếp công dân và phòng, chống tham nhũng (PCTN) là một hệ thống lưu trữ thông tin liên quan đến các hoạt động thanh tra, giải quyết KNTC, tiếp công dân và PCTN. Xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học về thanh tra, KNTC, tiếp công dân và PCTN là quá trình tạo ra một hệ thống lưu trữ thông tin chuyên biệt về các hoạt động liên quan đến thanh tra, giải quyết KNTC, tiếp công dân và PCTN” - bà Huyền nhấn mạnh

 Việc hình thành cơ sở dữ liệu khoa học này không chỉ có ý nghĩa đặc biệt đối với công tác nghiên cứu và quản lý khoa học thanh tra, mà còn phục vụ hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành của cả ngành Thanh tra dựa trên một hệ thống thông tin khoa học, đầy đủ, kịp thời.

Tuy nhiên, theo bà Huyền, thực tiễn đã cho thấy cơ sở dữ liệu khoa học và việc khai thác cơ sở dữ liệu khoa học về thanh tra, KNTC, tiếp công dân và PCTN còn bộc lộ rất nhiều bất cập như: Chưa có một cơ sở dữ liệu khoa học; dữ liệu khoa học được lưu trữ tản mát, không có tính liên thông. Rất nhiều dữ liệu khoa học còn tồn tại dưới dạng tài liệu, sách, báo, tạp chí khiến việc lưu trữ, khai thác rất khó khăn.

Mặt khác, việc quản lý dữ liệu khoa học còn có những bất cập về cơ chế, phương thức cho đến hạ tầng kĩ thuật; kinh phí để xây dựng, duy trì và phát triển cơ sở dữ liệu khoa học này được đầu tư ít trong khi các chi phí dành cho các nội dung như đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho lĩnh vực này lại rất tốn kém.

Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu, đề tài đề xuất quan điểm, giải pháp xây dựng hoàn thiện cơ sở dữ liệu khoa học về thanh tra, KNTC, tiếp công dân và PCTN, đề tài triển khai 3 nội dung: Những vấn đề chung về xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học về thanh tra, KNTC, tiếp công dân và PCTN; Thực trạng các quy định có liên quan và thực tiễn xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học về thanh tra, KNTC, tiếp công dân và PCTN; Quan điểm, giải pháp xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học về thanh tra, KNTC, tiếp công dân và PCTN.

Tại hội thảo các đại biểu đều nhận định đây là đề tài rất cần thiết, có tính ứng dụng cao. Các ý kiến thảo luận tập trung về những nội dung như kết cấu (các mục gắn với 3 nội dung nghiên cứu), về phạm vi, về nội dung nghiên cứu chính.

TS Tạ Thu Thủy, Phó Trưởng phòng Nghiên cứu và Hợp tác phát triển, Viện CL&KHTT chia sẻ băn khoăn về phạm vi của đề tài, chỉ xây dựng cơ sở dữ liệu thôi hay thiên cả về kỹ thuật, chỉnh sửa, khai thác. Theo TS Tạ Thu Thủy chỉ nên tiếp cận ở việc xây dựng. Chương 1 nên bổ sung thêm phân loại cơ sở dũ liệu, phương pháp, cách thức. Mục vai trò ý nghĩa nên chuyển lên trên mục nội dung. Mục 1.1 nên chuyển tiêu đề là “Những vấn đề chung”.

Theo TS Nguyễn Thu Nga, Viện CL&KHTT đề cương mới chỉ dừng lại ở các tiêu mục cơ bản, cần chi tiết hơn. Chương 1 bổ sung thêm đặc thù của dữ liệu khoa học về lĩnh vực này như thế nào? từ đó dẫn tới việc cần thiết xây dựng cơ sở dữ liệu ra sao; Yêu cầu, tiêu chuẩn cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu trong lĩnh vực này như thế nào? Phần 2.1 kinh nghiệm nên chuyển lên Chương 1, tìm hiểu thêm cơ sở dữ liệu lĩnh vực khác. Chương 2 kết cấu lại cho hợp lý, thể hiện rõ hơn việc xuất phát từ thực tiễn yêu cầu của ngành cho thấy việc cần thiết xây dựng cơ sở dữ liệu, căn cứ vào nhu cầu thực tế để xây dựng cơ sở dữ liệu. Bổ sung thêm khảo sát các cơ sở dữ liệu của các ngành khác.

TS Phạm Thị Huệ, Trưởng phòng Nghiên cứu và Hợp tác phát triển, Viện CL&KHTT cho rằng đề tài thiên về kỹ thuật, kết cấu đề tài cơ bản là hợp lý. Tuy nhiên Chương 1 nên bổ sung thêm mục đích  của việc xây; phân loại cơ sở dữ liệu; đặc thù của việc xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học về thanh tra, KNTC, tiếp công dân và PCTN

Theo TS Nguyễn Huy Hoàng, Phó Viện trưởng Viện CL&KHTT, để giải quyết được mục tiêu nghiên cứu, đề tài cần trả lời được các câu hỏi:Hiện nay chúng ta đã có cơ sở dữ liệu chưa? Thực tế, hiện nay chúng ta đã có cơ sở dữ liệu, tuy nhiên chưa cụ thể, còn đang trong quá trình hình thành từng bước.

Về phần kết cấu,  đề tài cần tập trung triển khai theo hướng Chương 1: Những vấn đề chung về xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học về thanh tra, KNTC, tiếp công dân và PCTN, bao gồm: Mục 1.1: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, phân loại; mục 1.2: Thẩm quyền, nội dung, cách thức đề quản lý khái thác; mục 1.3: Những yếu tố tác động (Ý thức trách nhiệm của người lãnh đạo, cơ sở vật chất).

Chương 2: Thực trạng về việc xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học về thanh tra, KNTC, tiếp công dân và PCTN, bao gồm: Mục 2.1: Kết quả; mục 2.2: Đánh giá, nguyên nhân.

Chương 3: Giải pháp, tập trung vào 3 giải pháp: Giải pháp cơ sở pháp lý; giải pháp ứng dụng công nghệ số vào việc xây dựng cơ sở dữ liệu này như thế nào; Giải pháp về kinh phí, phương tiện.