Ca khúc: Tự hào người làm báo Thanh tra

Theo dõi Báo Thanh tra trên

Tây Nguyên là mảnh đất màu mỡ để khám phá

Thứ hai, 14/05/2012 - 12:19

(Thanh tra) - Năm 2012, hoạt động của Chi hội Văn nghệ dân gian (VNDG) Lâm Đồng đã thực sự chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn sau đại hội lần thứ nhất. Ngay sau khi “nhậm chức” Chi hội trưởng, TS. Lê Hồng Phong, giảng viên Đại học Đà Lạt cho rằng, Tây Nguyên chính là mảnh đất màu mờ về văn hóa dân gian để nghiên cứu, giảng dạy, truyền bá.

Tây Nguyên vẫn đang là mảnh đất màu mỡ của các nhà nghiên cứu

So với các chi hội khác trong Hội VHNT Lâm Đồng, thì Chi hội VNDG là chi hội có số lượng hội viên ít nhất thì phải. Tuy nhiên, nhìn vào tiềm lực, thì đây là một chi hội mạnh của Hội VHNT Lâm Đồng và của cả Hội VNDG Việt Nam. TS có cho là như thế?

Ở phạm vi quốc gia, Hội VNDG Việt Nam, tôi không dám chắc. Còn trong phạm vi Lâm Đồng, có thể nói thế này: Trong 17 hội viên hiện có, thì 100% người có bằng cử nhân trở lên; trong đó gồm một PGS-TS, một TS, 9 ThS và 7 hội viên còn lại là cử nhân. Tôi cho rằng, thế mạnh lớn nhất của Chi hội VNDG Lâm Đồng chính là hàm lượng chất xám khá cao. Một trong những thế mạnh của Chi hội VNDG Lâm Đồng nữa là, hầu hết các hội viên là người làm công tác nghiên cứu khoa học xã hội, hiện đang giảng dạy tại Đại học Đà Lạt hoặc đang thỉnh giảng tại trường này; hội viên của chúng tôi còn là những người nắm giữ cương vị chủ chốt ở các cơ quan văn hóa, quản lý văn hóa của tỉnh…

Ngay từ khi mới thành lập (10/2009, lâm thời), đội ngũ những nhà nghiên cứu của Chi hội VNDG Lâm Đồng đã hình thành nên nhiều hướng nghiên cứu và các nhóm nghiên cứu khá rõ. Trong đó, có ba nhóm đi theo ba hướng nghiên cứu là: Hướng nghiên cứu liên văn hóa (văn học - văn hóa học). Bên cạnh đó là hướng nghiên cứu so sánh, đã mở ra một triển vọng mới trong việc “khám phá” mảnh đất Tây Nguyên và Nam Tây Nguyên đang còn rất màu mỡ. Và, nhóm thứ ba, theo hướng nghiên cứu dân tộc học, nhân học và cả âm nhạc dân tộc học. Nhìn chung, trong các hướng nghiên cứu và nhóm nghiên cứu đó thì hướng nào cũng có những ưu điểm và những thành tựu nghiên cứu đáng ghi nhận: Hướng nghiên cứu liên ngành văn hóa - văn học đang thực hiện nhiều đề tài nhất, hướng nghiên cứu so sánh đã công bố được nhiều bài báo khoa học nhất, còn nhóm nghiên cứu nhân học - dân tộc học thì đã hình thành ê kíp nghiên cứu rõ nét nhất.

Một câu hỏi có vẻ hơi… công thức nhưng vẫn nêu ra đây: Xin ông điểm qua một vài công trình mà các tác giả hội viên Chi hội đã hoặc đang thực hiện?

Cồng chiêng - nét văn hóa đặc trưng của Tây Nguyên

Quả thật là chúng tôi không thể thống kê đầy đủ các công trình khoa học, các bài báo khoa học mà hội viên Chi hội đã thực hiện nhiều năm qua. Tôi chỉ xin nhấn mạnh điều này: Trong các thành tựu đạt được, theo đánh giá, vấn đề đáng quan tâm là các tác giả đều hướng công việc nghiên cứu của mình đến địa phương tỉnh Lâm Đồng, đến Tây Nguyên và rộng hơn là cả khu vực. Với riêng đội ngũ những người làm công tác nghiên cứu khoa học còn khá trẻ tuổi của Chi hội, chỉ cần lướt qua các đề tài nghiên cứu của họ trong thời gian gần đây cũng đủ để thấy rõ việc họ đã dành tâm huyết của mình cho mảnh đất mà họ đang sống như thế nào. Đó là những công trình “Sự chuyển biến trong hôn nhân và gia đình của người Churu ở Lâm Đồng” của ThS. Mai Minh Nhật, sinh năm 1983), “Tổng điều tra về lễ hội của các dân tộc Mạ, K’ho, Churu” của ThS. Lê Thị Nhuấn, sinh năm 1981), “Nghiên cứu truyện cổ Raglai” của ThS. Ngô Thành Vinh, sinh năm 1974), “Đặc điểm nữ nhân vật sử thi Tây Nguyên” của ThS. Võ Thị Thùy Dung, sinh 1979), “Văn hóa mẫu hệ Mnông” của ThS. Lê Thị Thanh Đạm, 1975,…

Lớp trẻ là vậy. Còn nếu như phải kể ra đây “thành tích” của những người thuộc lớp “gạo cội” thì người trước tiên cần được nhắc đến là PGs.Ts. Phan Thị Hồng, Trưởng khoa Ngữ văn và Văn hóa học, Đại học Đà Lạt. PGs.Ts. Phan Thị Hồng đã có một bề dày nghiên cứu đáng nể trong nhiều năm qua: “Giông nghèo tám vợ - Tre Vắt ghen ghét Giông” (trường ca dân tộc Banar, 1996), “Hệ thống nhân vật trong mối quan hệ với các đề tài - cốt truyện của sử thi anh hùng Tây Nguyên” (đề tài cấp bộ, 2004 - 2006), “Những câu chuyện bên bờ sông Dakbla” (truyện dài dân gian Banar, 1999)… Còn với bản thân tôi, không chỉ là một người làm công tác giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học, giờ đây, tôi cho rằng trách nhiệm sẽ nặng hơn trên đôi vai của mình với tư cách là Chi hội trưởng Chi hội VNDG Lâm Đồng - một chi hội có tính đặc thù cao của Hội VHNT Lâm Đồng - cho nên trong nhiều năm qua, tôi cũng đã cố gắng hết sức mình. Nếu phải kể ra đây thì xin được mạn phép nói rằng, ngay từ năm 1998, tôi đã có “Những ý kiến khác nhau về di tích Cát Tiên”; đến giai đoạn từ 1992 - 1994 là những “Nhân vật mồ côi trong truyện cổ Mạ”, “Tìm hiểu văn hóa dân gian một số dân tộc ở Lâm Đồng”, “Hiện tượng dị bản trong truyện cổ K’Ho”, “Về con số “bảy” trong truyện cổ Mạ”, “Yếu tố văn hóa nguyên thủy trong truyện cổ một số dân tộc ở Lâm Đồng”…; và trong những năm gần đây là những “Truyện malai ở Lâm Đồng” (2001), “Về sự vận động của văn học dân gian” (2003), “Phức thể truyện hài - ngụ ngôn Tây Nguyên qua trường hợp Mạ và K’Ho” (2006), “Truyện cổ Mạ - K’Ho” (2010)…

Nhìn vào các công trình, hội viên của Chi hội có vẻ như khá gắn bó với mảnh đất Nam Tây Nguyên và Tây Nguyên. Nhưng thú thật, điều mà chúng tôi băn khoăn là hầu hết các công trình xem ra chỉ là những nghiên cứu riêng lẻ, chưa mang tính tập thể cao?

Ông Chu Lượng Khanh trao quyết định tặng nhà cho ông Võ Văn Phước ở xã Phước Bình

Tôi xin khẳng định lại lần nữa: Tây Nguyên là mảnh đất màu mỡ để chúng tôi tiếp tục khai phá, nghiên cứu! Và như vậy, toàn thể anh chị em hội viên chúng tôi rất gắn bó với mảnh đất Nam Tây Nguyên - nơi chúng tôi đang sống và làm việc, và với cả Tây Nguyên. Điều tôi vừa nói là có cơ sở. Chỉ xin lấy một ví dụ cụ thể: Trong hơn mười năm qua, một số hội viên hiện nay của Chi hội chúng tôi là Nguyễn Vũ Hoàng, Đinh Bá Quang, Lê Hồng Phong, Võ Khắc Dũng và Ngọc Lý Hiển đã bỏ khá nhiều công sức cho việc thực hiện một số đề tài liên quan đến văn hóa vật thể và phi vật thể của các tộc người thiểu số Lâm Đồng.

Còn về “định hướng” ư? Có quá nhiều điều để nói! Bởi có lẽ là do “tham vọng khoa học” của chúng tôi quá lớn chăng? Cũng có thể, nhưng quan trọng hơn cả là vì mảnh đất Nam Tây Nguyên và Tây Nguyên này còn quá “màu mỡ” cần đến các nhà nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và những hội viên chúng tôi với tư cách là những người làm nghiên cứu phải “chạm tay vào” để lưu giữ cho con cháu muôn đời sau. Tất nhiên, đó là một cách nói. Còn công việc cụ thể, tôi xin tiết lộ: Ngay trong năm 2011 vừa qua, chúng tôi đã hoàn thành một công trình khoa học chung của cả tập thể theo hướng nghiên cứu so sánh và hiện đang chuẩn bị in ấn. Năm 2012 này, chúng tôi tiếp tục đăng ký với Hội VNDG Việt Nam một công trình chung theo hướng nghiên cứu liên ngành. Và, đến năm 2013 tới đây, một tuyển tập công trình của các hội viên sẽ được thực hiện nhân kỷ niệm 120 năm Đà Lạt và 55 năm Đại học Đà Lạt hình thành và phát triển.

Xin cảm ơn TS. Lê Hồng Phong.

Kim Chánh

Ý kiến bình luận:

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!

Tin cùng chuyên mục

Huyện Mường Khương nâng cao vai trò, trách nhiệm của cộng đồng đối với việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc

Huyện Mường Khương nâng cao vai trò, trách nhiệm của cộng đồng đối với việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc

(Thanh tra) - Những năm qua, huyện Mường Khương đã triển khai nhiều biện pháp nâng cao vai trò, trách nhiệm của cộng đồng đối với việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc. Qua đó, đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi.

Nam Dũng

14:20 11/12/2024

Tin mới nhất

Xem thêm