Theo dõi Báo Thanh tra trên
Hà Tuấn
Thứ năm, 21/08/2025 - 15:44
(Thanh tra) - Sau gần một thập kỷ triển khai chiến lược quốc gia, ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đã ghi nhận những thành tựu bước đầu đáng khích lệ, từng bước khẳng định vai trò là một động lực tăng trưởng kinh tế - xã hội mới. Tuy nhiên, để tiềm năng khổng lồ này thực sự trở thành một “mỏ vàng”, cần có những giải pháp đột phá và một chiến lược đầu tư trọng tâm, trọng điểm hơn nữa.
Phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam không thể tách rời việc gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc. Ảnh: Hà Tuấn
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự bùng nổ của kỷ nguyên số, sức mạnh của một quốc gia không chỉ được đo bằng các chỉ số kinh tế hay quân sự, mà còn được khẳng định bởi “sức mạnh mềm” văn hóa. Nhận thức sâu sắc xu hướng này, Việt Nam đã và đang có những bước đi chiến lược để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, biến nguồn tài nguyên văn hóa dồi dào thành động lực phát triển bền vững.
Nhận định vai trò, tầm quan trọng của các ngành công nghiệp văn hóa trong kỷ nguyên số, kỷ nguyên thông minh, ngày 8/9/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1755/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (Chiến lược); tiếp đó là Chi thị số 30/CT-TTg ngày 29/8/2024 nhằm tiếp tục thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Nhìn lại chặng đường đã qua, không thể phủ nhận những kết quả tích cực mà Chiến lược đã mang lại. Rõ rệt nhất là sự chuyển biến trong nhận thức của toàn xã hội, từ các cơ quan quản lý đến doanh nghiệp và người dân, về vai trò và tầm quan trọng của công nghiệp văn hóa. Văn hóa không còn chỉ được nhìn nhận như một lĩnh vực mang tính bảo tồn, gìn giữ, mà đã trở thành một ngành kinh tế thực thụ, có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao.
Các con số thống kê là minh chứng rõ nét. Báo cáo của Chính phủ cho thấy, qua số liệu ước tính, giá trị tăng thêm (giá hiện hành) của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp vào nền kinh tế năm 2018 ước đạt 5,82%; năm 2019 ước đạt 6,02%; năm 2020 và 2021 do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 nên số liệu có sự sụt giảm chỉ còn khoảng 4,32% và 3,92%; đến năm 2022 các ngành đã bắt đầu phục hồi và giá trị đóng góp có sự tăng trưởng ước đạt 4,04%. Giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam giai đoạn 2018 - 2022 ước bình quân đạt 1,059 triệu tỷ đồng (tương đương khoảng 44 tỷ USD).
Các cơ chế, chính sách liên quan đến các ngành công nghiệp văn hóa đã và đang từng bước được hoàn thiện nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình quản lý các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam, cụ thể như: Luật Điện ảnh (2022); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (2022); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng (2020); Nghị định số 17/2023/NĐ-CP ngày 26/4/2023 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan; Nghị định số 70/2021/NĐ-CP ngày 20/7/2021 của Chính phủ quy định chì tiết thi hành một số điều của Luật Quảng cáo...
Sự phát triển này không chỉ dừng lại ở những con số. Hàng loạt sự kiện, chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí quy mô lớn đã được tổ chức thành công, tạo hiệu ứng xã hội mạnh mẽ và thu hút sự quan tâm của quốc tế. Có thể kể đến Lễ hội Thiết kế sáng tạo Hà Nội, Liên hoan Phim quốc tế TP Hồ Chí Minh, Lễ hội pháo hoa quốc tế Đà Nẵng, hay các chương trình truyền hình thực tế hấp dẫn như “Anh trai vượt ngàn chông gai”. Những sự kiện này không chỉ làm phong phú đời sống tinh thần của người dân mà còn góp phần định vị thương hiệu văn hóa cho các địa phương.
Một thành tựu đặc biệt tự hào là sự công nhận của quốc tế. Việc UNESCO vinh danh Hà Nội, Đà Lạt và Hội An là các “thành phố sáng tạo” trong các lĩnh vực thiết kế, âm nhạc, thủ công và nghệ thuật dân gian đã khẳng định vị thế và tiềm năng của văn hóa Việt Nam trên bản đồ sáng tạo toàn cầu. Song song đó, hành lang pháp lý cũng từng bước được hoàn thiện với việc ban hành Luật Điện ảnh (2022), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (2022), tạo cơ sở vững chắc hơn cho việc bảo hộ bản quyền và thúc đẩy sáng tạo.

Sức hấp dẫn và sự khác biệt của sản phẩm văn hóa Việt Nam trên thị trường toàn cầu chính là nằm ở những giá trị văn hóa độc đáo. Ảnh: Hà Tuấn
Bên cạnh những thành tựu đáng khích lệ, con đường phát triển công nghiệp văn hóa của Việt Nam vẫn còn đối mặt với không ít thách thức. Một trong những “nút thắt” lớn nhất là sự thiếu hụt các cơ chế, chính sách đủ mạnh để thu hút nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là từ khu vực tư nhân, và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn lực đầu tư của Nhà nước hiện còn dàn trải, chưa thực sự tập trung vào các lĩnh vực có tiềm năng đột phá.
Công tác thống kê và xây dựng cơ sở dữ liệu, vốn là nền tảng cho việc hoạch định chính sách, vẫn còn nhiều bất cập. Sự thiếu đồng bộ và toàn diện trong số liệu thống kê giữa các bộ, ngành, địa phương gây khó khăn cho việc đánh giá chính xác hiệu quả và đề xuất các giải pháp phù hợp.
Vấn đề nguồn nhân lực cũng là một bài toán nan giải. Chúng ta đang thiếu cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia, nhà quản lý, nhà sáng tạo có trình độ cao, có khả năng cạnh tranh trong môi trường quốc tế.
Để biến tiềm năng thành sức mạnh, việc xác định một lộ trình phát triển rõ ràng với các giải pháp đột phá là yêu cầu cấp thiết. Trước hết, cần đổi mới tư duy và hành động, chuyển từ phát triển chiều rộng sang chiều sâu, tập trung vào các ngành trọng tâm, trọng điểm có lợi thế cạnh tranh như điện ảnh, âm nhạc, thiết kế, phần mềm và các trò chơi giải trí. Việc ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phải được xem là khâu đột phá, giúp nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh cho các sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
Thứ hai, cần xây dựng một hệ sinh thái công nghiệp văn hóa đồng bộ và chuyên nghiệp. Điều này đòi hỏi sự liên kết chặt chẽ giữa các khâu: Sáng tạo - sản xuất - phân phối - quảng bá - tiêu dùng. Nhà nước cần đóng vai trò kiến tạo, ban hành các cơ chế, chính sách ưu đãi hấp dẫn để thu hút đầu tư, đồng thời tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ để bảo vệ các nhà sáng tạo. Cần hình thành các doanh nghiệp văn hóa lớn, đủ sức dẫn dắt thị trường và vươn ra quốc tế.
Thứ ba, cần phát triển theo mô hình cụm liên kết ngành, lựa chọn một số địa phương có lợi thế như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế làm hạt nhân, kết nối với các tỉnh, thành phố vệ tinh để tạo ra các vùng động lực phát triển. Đồng thời, cần mạnh dạn đầu tư xây dựng các trung tâm, tổ hợp văn hóa - giải trí - nghệ thuật quy mô lớn, hiện đại, đủ sức tổ chức các sự kiện tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Cuối cùng, phát triển công nghiệp văn hóa không thể tách rời việc gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc. Sức hấp dẫn và sự khác biệt của sản phẩm văn hóa Việt Nam trên thị trường toàn cầu chính là nằm ở những giá trị văn hóa độc đáo. Do đó, chiến lược phát triển cần hài hòa giữa yếu tố hiện đại và truyền thống, giữa kinh tế và văn hóa, để mỗi sản phẩm không chỉ mang lại giá trị thương mại mà còn là một “sứ giả” quảng bá hình ảnh, con người và văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Hành trình đưa công nghiệp văn hóa trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn vẫn còn nhiều việc phải làm. Nhưng với những định hướng chiến lược đúng đắn, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và sự năng động, sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng, văn hóa sẽ trở thành một nguồn sức mạnh nội sinh quan trọng, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Ý kiến bình luận:
Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!
(Thanh tra) - Những năm gần đây, Lào Cai, mảnh đất miền núi biên giới với 34 dân tộc anh em sinh sống đang chuyển mình mạnh mẽ trên nền tảng tinh thần tự lực, đoàn kết và phát triển. Những nỗ lực đồng bộ của Đảng bộ, chính quyền và đồng bào các dân tộc đã mở ra một con đường đi lên bền vững, khởi sắc rõ nét.
Bình Yên
(Thanh tra) - Tối 4/12, tại xã Cái Bè, UBND tỉnh Đồng Tháp tổ chức khai mạc Lễ hội Văn hóa - Du lịch Làng cổ Đông Hòa Hiệp lần thứ VI năm 2025 với chủ đề “Ký ức Làng cổ”.
Bích Liên - Đan Anh
Chính Bình
Bảo San
Thanh Hoa
Nguyệt Huy
B.S
Hương Giang
Nhật Minh
B.S
Trần Quý
B.S
Hải Hà
Chính Bình
T. Minh
T.Vân
Bảo Anh