Theo dõi Báo Thanh tra trên
Thứ hai, 28/02/2011 - 17:03
(Thanh tra)- UBND huyện Hoành Bồ đã có Quyết định số 1941/QĐ-UBND giải quyết khiếu nại (KN) của ông Đinh Văn Đăng và ông Đinh Văn Cần, thôn Đất Đỏ, xã Thống Nhất.
Nhiều đề nghị bồi thường không có cơ sở
Hộ ông Đinh Văn Đăng bị thu hồi 1.710,4m2 đất ở và đất vườn. Phương án bồi thường năm 2009 lập: Đất ở, vị trí 2 nhánh rẽ đường Đồng Cao - Đò Bang vào xóm nhà ông Lưu, thôn Đất Đỏ đến giáp mặt bằng Nhà máy Xi măng Hạ Long: 600m2 X 150.000 đồng/m2 = 90 triệu đồng.
Tại thời điểm kiểm đếm đất đai, tài sản (xác định khối lượng tài sản bị thiệt hại) ngày 15/3/2005, hộ ông Đinh Văn Đăng và bà Nguyễn Thị Lụa (gọi tắt là hộ ông Đăng) và hộ ông Đinh Văn Cần và bà Nguyễn Thị Hà (gọi tắt là hộ ông Cần) tách khẩu ngày 29/9/2002 cùng chung sống trên 1 diện tích đất ở bị thu hồi.
Do việc chuyển nhượng đất giữa hộ ông Đăng và hộ ông Cần chưa làm thủ tục được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp luật, trong đơn xin tách thửa không có chữ ký đồng ý của bà Nguyễn Thị Lụa là người có cùng quyền sử dụng đất (QSDĐ) với ông Đinh Văn Đăng nên QSDĐ vẫn là của hộ ông Đăng.
Hộ ông Đăng chưa có giấy tờ về QSDĐ theo quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003.
Hộ ông Đinh Văn Bạo và bà Trần Thị Hân mới kết hôn ngày 24/3/2008 sau thời điểm kiểm đếm, chưa tách khẩu, chưa có nhà riêng.
Căn cứ khoản 1, Điều 8 Mục B Quyết định số 1122/QĐ-UB, ngày 20/4/2005 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (TĐC) khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, quy định: “Hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ ở không có 1 trong các loại giấy tờ về QSDĐ theo quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai và không có hồ sơ địa chính thì diện tích được bồi thường là đất ở xác định bằng hạn mức giao đất ở do UBND tỉnh quy định”. Theo khoản 2 Điều 3 Chương II Quyết định số 4505/QĐ-UBND ngày 5/12/2007 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc quy định hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh: “Hạn mức giao đất ở nông thôn:… Các xã trung du, miền núi, hải đảo: Hạn mức giao đất ở cho 1 hộ không quá 400m2/hộ”. Khoản 2 Điều 8 Chương II Quyết định số 4505/QĐ-UBND ngày 5/12/2007 cũng quy định: “Trường hợp trên 1 thửa đất có nhà ở có nhiều thế hệ cùng chung sống trên 1 thửa đất (hộ chính chủ đã ở ổn định trước ngày 15/10/1993) thì thế hệ thứ 2 trở đi, mỗi cặp vợ chồng (được công nhận theo Luật Hôn nhân và Gia đình) được cộng thêm ½ hạn mức công nhận đất ở tại khu vực đó”. Như vậy, đất ở hộ ông Đăng và hộ ông Cần được bồi thường với diện tích 600m2 như phương án bồi thường do Ban Đền bù giải phóng mặt bằng (GPMB) huyện lập là đúng quy định. Đề nghị được bồi thường 800m2 đất ở do có 3 cặp vợ chồng cùng chung sống của ông Đinh Văn Đăng và Đinh Văn Cần là không có cơ sở.
Vị trí đất hộ ông Đăng và hộ ông Cần cùng chung sống, qua xác minh ngày 2/10/2009, có vị trí: Không bám đường nhánh vào xóm nhà ông Lưu, có đường đi vào nhà rộng từ 3 - 3,5m.
Căn cứ bảng giá đất năm 2009 trên địa bàn huyện Hoành Bồ ban hành kèm theo Quyết định số 4158/2008/QĐ-UBND ngày 31/12/2008 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh năm 2009 nêu rõ: Nhánh rẽ từ đường Đồng Cao - Đò Bang vào xóm nhà ông Lưu, thôn Đất Đỏ đến giáp mặt bằng Nhà máy Xi măng Hạ Long, thửa đất sau vị trí 1 có đường đi riêng hoặc bám theo nhánh rộng từ 3m trở lên (vị trí 2) là 150.000 đồng/m2. Như vậy, đơn giá đất ở bồi thường cho hộ ông Đăng và hộ ông Cần 150.000 đồng/m2 là đúng quy định. Đề nghị được bồi thường giá đất ở là 180.000 đồng/m2 của ông Đinh Văn Cần và ông Đinh Văn Đăng không có cơ sở.
Phương án bồi thường của Ban Đền bù GPMB huyện đúng quy định
Hộ ông Đăng và hộ ông Cần bị thu hồi 1.710,4m2 thửa số 45 (gồm thửa số 45A và 45B). Trong đó có 600m2 đất ở và 1.110,4m2 đất vườn trong khuôn viên đất ở. Hộ ông Đăng và hộ ông Cần đã kê khai nộp thuế SDĐ với diện tích 500m2 đất vườn trong khuôn viên đất ở, chưa kê khai nộp thuế SDĐ với diện tích 610,4m2.
Phương án bồi thường lập: Đất vườn trong cùng thửa đất có nhà ở trồng cây lâu năm đã nộp thuế SDĐ: 500m2 X 31.200 đồng/m2 X 100% = 15,6 triệu đồng. Đất vườn trong cùng thửa đất có nhà ở trồng cây lâu năm chưa nộp thuế SDĐ: 610,4m2 X 31.200 đồng/m2 X 70% = 13.331.136 đồng. Hỗ trợ đất vườn trong cùng thửa đất có nhà ở: 1.110,4m2 X 150.000 đồng/m2 X 30% = 49,968 triệu đồng.
Căn cứ khoản 4 Điều 13 Mục C Chương II Quyết định số 1122/2005/QĐ-UBND ngày 20/4/2005 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh quy định: “Hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp… có kê khai thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước thì được bồi thường 100% đất nông nghiệp cùng hạng… Nếu không kê khai thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước thì không được bồi thường mà chỉ được hỗ trợ bằng 70% đối với diện tích đất trong hạn mức và 20% đối với diện tích ngoài hạn mức giá đất nông nghiệp cùng hạng bị thu hồi”. Mục 6 Quyết định số 4466/2005/QĐ-UBND ngày 1/12/2005 của UBND tỉnh Quảng Ninh sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định ban hành kèm theo Quyết định số 1122/2005/QĐ-UBND cũng nêu rõ: “Đất vườn ao liền kề với đất ở trong khu dân cư, ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp cùng mục đích sử dụng còn được hỗ trợ 30% đối với diện tích đầu tiên bằng 5 lần hạn mức giao đất ở”. Như vậy, việc bồi thường, hỗ trợ về đất vườn cho hộ ông Đăng và hộ ông Cần như phương án bồi thường do Ban Đền bù GPMB huyện lập là đúng quy định. Đề nghị được bồi thường 100% giá trị đất vườn trong khuôn viên đất ở tại thửa số 45A và 45B của ông Đinh Văn Cần và ông Đinh Văn Đăng không có cơ sở.
Trong các vật kiến trúc bị thiệt hại do di chuyển GPMB của hộ ông Đăng và hộ ông Cần có: Bể nước, bể phân xây không đạt tiêu chuẩn, bồi thường 75% giá trị theo đơn giá khối lượng bóc tách công việc thực tế. Hàng rào nứa bồi thường 50%. Các vật kiến trúc khác được bồi thường 100%. Căn cứ Quyết định số 4005/2004/QĐ-UBND ngày 4/11/2004 của UBND tỉnh Quảng Ninh, tại trang 9 quy định: “Nếu bể bồi thường xây không đạt quy định nêu trên thì phải kiểm đếm khối lượng theo thực tế và đền bù khối lượng xây trát theo đơn giá bằng 75% đơn giá xây dựng cơ bản của tỉnh Quảng Ninh”. Vì thế, việc bồi thường bể phốt và bể nước như phương án bồi thường lập = 75% đơn giá là đúng quy định.
Theo biên bản xác định khối lượng tài sản bị thiệt hại ngày 15/3/2005 giữa ông Đinh Văn Cần với Hội đồng Đền bù GPMB huyện, hộ ông Cần có 78,1m2 hàng rào nứa, bản rào < 2cm, mắt cáo < 10cm, cao > 1,2m. Phương án bồi thường lập bồi thường 50% giá trị. Căn cứ khoản VI Mục C Chương I Phần II Quyết định số 4005/2004/QĐ-UBND ngày 4/11/2004 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc ban hành bộ đơn giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh quy định: “5. Cây làm loại hàng rào đan mắt cáo bằng tre róc không đạt quy định nêu trên, hàng rào bằng nứa, cây lùm loại đan mắt cáo thì giá bồi thường bằng 50% giá quy định tại mục 1, 2”. Như vậy, 78,1m2 hàng rào nứa hộ ông Đăng và hộ ông Cần được bồi thường 50% đơn giá là đúng quy định.
Diện tích thửa đất số 45 (gồm thửa số 45A và 45B), tờ bản đồ GPMB số 08, hộ ông Đăng và hộ ông Cần bị thu 1.710,4m2 (hộ ông Đăng là 1.180,4m2, hộ ông Cần là 530m2). Diện tích đã xây dựng công trình là 247,7m2 (hộ ông Đăng xây dựng 239,8m2, hộ ông Cần xây dựng 34,7m2). Diện tích đất trồng cây thực tế là 1.435,9m2, diện tích trồng cây đến mật độ 110% là 1.578,5m2 (hộ ông Đăng là 940,6m2 X 110% = 1.034,66m2, hộ ông Cần là 495,3m2 X 100% = 545m2).
Phương án bồi thường đã lập với hộ ông Đăng là: Cây trồng trong mật độ tiêu chuẩn tính đến mật độ 110% được bồi thường 100% giá trị là 241 cây với diện tích 854,14m2. Một số cây trồng đơn lẻ, cây cảnh, nghệ, giềng, cây thuốc Nam… được bồi thường 100% giá trị. Còn lại các loại cây trồng khác được bồi thường 14% và 20%. Như vậy, diện tích đất trồng cây tính đến mật độ cây trồng 110% hộ ông Đăng chưa được bồi thường 100% là 1.034,66m2 - 856m2 = 178,66m2.
Phương án bồi thường đã lập với hộ ông Cần là: Cây trồng trong mật độ tiêu chuẩn tính đến mật độ 110% được bồi thường 100% giá trị là 67 cây với diện tích 536,6m2. Một số cây trồng đơn lẻ, cây cảnh, nghệ, giềng, cây thuốc Nam… được bồi thường 100% giá trị. Còn lại các loại cây trồng khác được bồi thường 14% và 20%.
Căn cứ khoản C Mục I Phần I Quyết định số 574/QĐ-UBND ngày 6/3/2009 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc quy định điều chỉnh, bổ sung đơn giá bồi thường thiệt hại về cây trồng khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh quy định: “Cây trồng trong vườn tạp là cây trồng tự do nhiều loại trên 1 đơn vị diện tích, không theo tiêu chuẩn kỹ thuật. Việc bồi thường đối với cây trồng trong vườn tạp được thực hiện theo thứ tự từ cây có giá trị cao đến cây có giá trị thấp. Nếu mật độ cây trồng thực tế so với mật độ tiêu chuẩn nhỏ hơn hoặc bằng 110% thì đơn giá bồi thường bằng 100% đơn giá quy định trong tập đơn giá này. Nếu mật độ cây trồng thực tế lớn hơn 110% so với mật độ tiêu chuẩn thì số cây vượt quá mật độ 110% không được bồi thường, nhưng được hỗ trợ bằng 20% đơn giá bồi thường quy định trong tập đơn giá này. Trong trường hợp cụ thể, nếu mật độ cây trồng thực tế lớn hơn 110% so với mật độ tiêu chuẩn, nhưng số cây vượt mật độ đó có chiều cao và đường kính được xác định là cây đã được trồng từ 5 năm trở lên (được các gia đình lân cận xác nhận) thì được hỗ trợ bằng 100% đơn giá bồi thường quy định trong tập đơn giá này”. Như vậy, việc bồi thường cây trồng cho hộ ông Cần như phương án bồi thường do Ban Đền bù GPMB lập là đúng quy định. Do đó, đề nghị bồi thường 100% giá trị các loại cây trồng của ông Đinh Văn Cần là không có cơ sở.
Không hỗ trợ di chuyển 15 triệu đồng/hộ đối với ông Đăng, ông Cần
Năm 2005, hộ ông Cần được hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm do bị thu hồi 360/360m2 = 100% diện tích đất nông nghiệp được giao là 2.484.000 đồng.
Năm 2006, hộ ông Đăng được hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm do bị thu hồi 72,22% diện tích đất nông nghiệp được giao là 11.900.000 đồng.
Năm 2009, hộ ông Đăng và hộ ông Cần được hỗ trợ di chuyển và ổn định cuộc sống là 17.288.000 đồng.
Tiết 1.1.2 điểm 1.1 khoản 1 Điều 30 Quyết định số 1122/2005/QĐ-UBND ngày 20/4/2005 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh quy định: “Hỗ trợ di chuyển… Di chuyển trong phạm vi nội huyện: 2.000.000 đồng/hộ chính chủ”. Tiết 1.1.3 khoản 1 Điều 32 quy định: “Khi bị thu hồi đất trên 70% diện tích đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm được giao thì được hỗ trợ 6.000 đồng/m2, nhưng không quá 3,5 triệu đồng/lao động”. Điều 33 quy định: “1/Trẻ em dưới 15 tuổi được hỗ trợ bằng 30% mức hỗ trợ quy định tại Điều 32 của quy định này. 2/Người già được hỗ trợ bằng 70% mức hỗ trợ quy định tại Điều 32 của quy định này”.
Mục 18 Quyết định số 4466/2005/QĐ-UBND ngày 1/12/2005 của UBND tỉnh Quảng Ninh sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định ban hành kèm theo Quyết định số 1122/2005/QĐ-UBND quy định: “Mức hỗ trợ 1 tháng cho hộ từ 2 - 4 người khu vực nông thôn là 550.000 đồng. Thời gian tính tiền hỗ trợ đối với gia đình tự xây dựng nhà kể từ ngày bàn giao mặt bằng đến ngày nhận đất tại khu TĐC (+) thêm 4 tháng”. Mục 23 quy định: “3.2/Di chuyển đến nơi ở mới không thuộc xã phường đặc biệt khó khăn thì được hỗ trợ ổn định đời sống bằng 180kg gạo/nhân khẩu”. Mục 34 tiết 3.2.1 quy định: “TĐC tại chỗ… Đất ở còn lại đủ điều kiện xây dựng nhà ỏ 15 triệu đồng/hộ chính chủ”.
Mục 2 Công văn số 08/UBND-QLĐĐ ngày 2/1/2008 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc quy định chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để GPMB thực hiện các dự án trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh quy định: “Đối với những phương án bồi thường, hỗ trợ và TĐC đã có thông báo chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ trước ngày UBND tỉnh ban hành văn bản này thì thực hiện theo phương án đã được phê duyệt, không áp dụng hoặc điều chỉnh theo quy định trên”.
Như vậy, cả hộ ông Đăng và hộ ông Cần được hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ ổn định cuộc sống, chuyển đổi nghề, tạo việc làm như phương án bồi thường lập là đúng quy định. Đề nghị cả 2 hộ được hưởng chính sách hỗ trợ di chuyển 15 triệu đồng/hộ của ông Đinh Văn Đăng và ông Đinh Văn Cần là không có cơ sở.
Kết luận chung
Theo cơ quan chức năng huyện Hoành Bồ, việc tính bồi thường hỗ trợ về đất ở; việc bồi thường, hỗ trợ đất vườn trong khuôn viên đất ở; việc bồi thường hàng rào nứa, bể nước; việc hỗ trợ di chuyển, ổn định cuộc sống; chuyển đổi nghề, tạo việc làm cho hộ ông Đăng và hộ ông Cần như phương án bồi thường lập năm 2009 là đúng quy định. Việc tính bồi thường 100% giá trị đối với cây trồng của hộ ông Cần như phương án lập là đúng quy định. Việc tính diện tích đất trồng cây tính đến mật độ cây trồng 110% cho hộ ông Đăng như phương án bồi thường lập còn thiếu 178,66m2.
Đề nghị được bồi thường 800m2 đất ở theo giá 180.000 đồng/m2; bồi thường 100% giá trị đất vườn trong khuôn viên đất ở tại thửa số 45A và 45B; bồi thường 100% giá trị về bể nước và bể phân; đề nghị cả 2 hộ đều được hưởng chính sách hỗ trợ di chuyển 15 triệu đồng/hộ của ông Đinh Văn Đăng và ông Đinh Văn Cần là không có cơ sở.
Đề nghị được bồi thường 100% giá trị đối với cây trồng của ông Đinh Văn Cần cũng không có cơ sở.
Riêng đề nghị được bồi thường 100% giá trị đối với cây trồng của ông Đinh Văn Đăng là có cơ sở.
Từ những cơ sở phân tích nêu trên, UBND huyện Hoành Bồ đã quyết định: Chấp nhận một phần KN của Đinh Văn Đăng và ông Đinh Văn Cần, bồi thường bổ sung về cây trồng trong diện tích tính đến mật độ 110% với diện tích 178,66m2 cho hộ ông Đăng. Không chấp nhận KN đề nghị được bồi thương 100% giá trị đối với cây trồng của ông Đinh Văn Cần. Đồng thời, không chấp nhận đề nghị được bồi thường 800m2 đất ở theo giá 180.000 đồng/m2; đề nghị được bồi thường 100% giá trị đất vườn trong khuôn viên đất ở tại thửa số 45A và 45B; đề nghị được bồi thường 100% giá trị về bể nước; đề nghị cả 2 hộ đều được hưởng chính sách hỗ trợ di chuyển 15 triệu đồng/hộ của ông Đinh Văn Đăng và ông Đinh Văn Cần ở thôn Đất Đỏ, xã Thống Nhất, huyện Hoành Bồ.
Quyết định này thay thế Quyết định 473/QĐ-UBND ngày 10/3/2010 về việc giải quyết KN của ông Đinh Văn Đăng và ông Đinh Văn Cần.
Hoàng Anh
Ý kiến bình luận:
Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!
(Thanh tra) - Ngày 19/12, Thanh tra tỉnh Lâm Đồng đã tổ chức Hội nghị tập huấn công tác bảo vệ bí mật nhà nước cho toàn thể công chức, viên chức của Thanh tra tỉnh theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến.
(Thanh tra) - Thanh tra thành phố Đà Nẵng vừa ban hành kết luận về việc chấp hành các quy định pháp luật trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh tại 3 phòng khám đa khoa tư nhân gồm Phòng khám đa khoa quốc tế Đông Phương, Phòng khám đa khoa Hải Vân, Phòng khám đa khoa Nhân Tâm. Kết luận đã chỉ rõ nhiều tồn tại, hạn chế cần khắc phục.
Thái Nam
Trần Quý
Đan Quế
Thanh
Uyên Phương
Chính Bình
Chính Bình
Chính Bình
Trần Kiên
Kim Thành
Kim Thành
Ngô Tân
Hương Trà
PV
Hương Giang