Nội dung này được Chính phủ nêu tại báo cáo tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết 43 ngày 11/1/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế - xã hội, gửi Quốc hội.

Tại Nghị quyết 43, Quốc hội quyết nghị sử dụng tối đa 40.000 tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước để hỗ trợ 2% lãi suất cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi; cho vay cải tạo chung cư cũ, xây dựng nhà ở xã hội, nhà cho công nhân mua, thuê và thuê mua.

Báo cáo của Chính phủ cho biết, đến hết năm 2023, doanh số hỗ trợ lãi suất đạt khoảng 240.000 tỷ đồng, dư nợ hỗ trợ lãi suất đạt hơn 61.000 tỷ đồng.

Số tiền hỗ trợ lãi suất lũy kế từ đầu chương trình đạt khoảng 1.218 tỷ đồng (tương đương khoảng 3,05% tổng quy mô chính sách) cho gần 2.300 khách hàng. Như vậy, còn khoảng 38.782 tỷ đồng thuộc gói hỗ trợ không sử dụng hết.

Con số giải ngân gói hỗ trợ lãi suất 2% đến cuối năm 2023 “nhích” thêm không nhiều so với thời điểm Chính phủ báo cáo Quốc hội vào tháng 10/2023.

Cuối tháng 10/2023, gói này giải ngân 873 tỷ đồng. Thời điểm đó, Chính phủ đề xuất Quốc hội cho phép thực hiện tiếp gói hỗ trợ lãi suất này tới hết năm 2023.

“Với số vốn không giải ngân hết của chính sách, sau khi kết thúc thời gian giải ngân kế hoạch năm 2022 và năm 2023, trình Quốc hội hủy dự toán, kế hoạch vốn, không huy động nguồn lực, đồng thời không làm tăng bội chi tương ứng với số vốn này”, báo cáo nêu.

Chính phủ cũng báo cáo rõ các nguyên nhân khiến chính sách này có kết quả triển khai thấp. Một trong số đó là tâm lý e ngại thanh tra, kiểm tra.

“Doanh nghiệp đủ điều kiện nhưng lựa chọn không thụ hưởng chính sách, chủ yếu do ngại thanh tra, kiểm tra. Họ cân nhắc giữa lợi ích từ việc được hỗ trợ lãi suất và chi phí phát sinh nếu nhận hỗ trợ lãi suất như phải theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền”.

Khách hàng cũng có tâm lý lo ngại trường hợp bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định phải thu hồi số tiền hỗ trợ lãi suất do số tiền này đã được hạch toán vào lợi nhuận doanh nghiệp và chia cổ tức cho cổ đông.

Chưa kể việc xác định đối tượng khách hàng thuộc diện “có khả năng phục hồi” theo quy định tại Nghị quyết số 43 gặp khó khăn.

Chính phủ phân tích, khách hàng dù có khả năng trả nợ nhưng cũng không thể khẳng định có khả năng phục hồi (thường thể hiện thông qua các tiêu chí định lượng như doanh thu/sản lượng/lợi nhuận tăng hoặc các tiêu chí định tính như diễn biến, chiều hướng kinh doanh).

Trường hợp, khách hàng được hỗ trợ lãi suất nhưng tình hình sản xuất kinh doanh suy giảm, ảnh hưởng đến các tiêu chí nêu trên làm cho ngân hàng thương mại và khách hàng e ngại bị các cơ quan thanh tra, kiểm tra đánh giá trục lợi chính sách.

Ngoài ra, một số khách hàng có doanh thu/lợi nhuận trong giai đoạn dịch bệnh cao hơn hiện tại nên khó để đánh giá việc đáp ứng tiêu chí “phục hồi”.

Nguyên nhân nữa, theo Chính phủ, hoạt động kinh doanh của các đối tượng ngành, lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất có nhiều chuyển biến so với thời điểm ban hành Nghị quyết số 43.

Điều này, dẫn đến nhu cầu được hỗ trợ có thể thay đổi so với thời điểm ban hành chính sách. Thay vì nhu cầu hỗ trợ lãi suất, doanh nghiệp có nhu cầu được hỗ trợ trực tiếp hoặc giảm thuế, phí, lệ phí.

Hương Giang