Theo dõi Báo Thanh tra trên
Minh Nguyệt
Thứ hai, 10/11/2025 - 18:34
(Thanh tra) - Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao đang lấy ý kiến về dự thảo nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ. Văn bản được kỳ vọng sẽ tạo ra khung pháp lý thống nhất, chặt chẽ, đồng thời thể hiện rõ chính sách khoan hồng đặc biệt của Nhà nước đối với những trường hợp cụ thể.
Điểm đáng chú ý đầu tiên của dự thảo nghị quyết là việc làm rõ các khái niệm pháp lý quan trọng.
Khái niệm “người có chức vụ” quy định tại khoản 2, Điều 352 Bộ luật Hình sự được hướng dẫn chi tiết, không chỉ bao gồm cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng/công an, người đại diện phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, người giữ chức danh quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức mà còn mở rộng đến “Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó”.
Đặc biệt, dự thảo nghị quyết làm rõ người này là người có phát sinh mối quan hệ lao động với bên giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Ví dụ, hành vi tham ô tài sản của nhân viên giao hàng, bảo vệ ký hợp đồng lao động với công ty, nếu lợi dụng nhiệm vụ được giao để chiếm đoạt tài sản, vẫn có thể bị truy cứu về Tội tham ô tài sản.
Bên cạnh đó, khái niệm “do một hình thức khác” quy định tại khoản 2, Điều 352 Bộ luật Hình sự là trường hợp không phải do bổ nhiệm, bầu cử, tuyển dụng, hợp đồng nhưng được giao thực hiện nhiệm vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ đó. Ví dụ điển hình là tình nguyện viên tham gia chương trình cứu trợ hoặc người được cử hỗ trợ thu phí giữ xe, nếu có hành vi tham ô tài sản đều có thể bị xử lý.
Dự thảo nghị quyết cũng hướng dẫn rõ về “cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 1, Điều 352” bao gồm cơ quan, tổ chức, đơn vị Nhà nước và doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước.
Trong đó, “doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước” là doanh nghiệp, tổ chức không thuộc trường hợp do Nhà nước thành lập, đầu tư cơ sở vật chất, cấp phát kinh phí... và do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý.
Ngoài ra, dự thảo nghị quyết cũng định nghĩa rõ ràng về lợi ích và hành vi lạm dụng, lợi dụng chức vụ, lợi ích vật chất và phi vật chất; quy định về một số tình tiết là dấu hiệu định tội và tình tiết định khung hình phạt. Ở mỗi quy định, dự thảo đều đưa ra những ví dụ cụ thể.

Dự thảo nghị quyết làm rõ các khái niệm pháp lý quan trọng trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ. Ảnh minh họa - ITN
Đây là một trong những nội dung trọng tâm và nhân văn nhất của dự thảo nghị quyết.
Đối với người phạm tội tham ô tài sản, nhận hối lộ, nếu trong quá trình tố tụng, họ đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng hoặc lập công lớn thì sẽ không áp dụng mức cao nhất của khung hình phạt mà họ bị truy tố, xét xử.
Khái niệm “chủ động nộp lại” cũng được mở rộng, bao gồm cả trường hợp người phạm tội đã tác động hoặc không phản đối việc vợ/chồng, cha/mẹ, anh, chị, em, bạn bè… nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản mà mình tham ô, nhận hối lộ.
Dự thảo nghị quyết xem xét áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt (Điều 59 Bộ luật Hình sự) đối với trường hợp người phạm tội có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ hoặc phạm tội lần đầu, vai trò không đáng kể (người giúp sức), nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
Không phạm tội vì động cơ vụ lợi, chỉ vì muốn đổi mới, dám đột phá vì sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Người có quan hệ lệ thuộc (như cấp dưới đối với cấp trên, người làm công ăn lương, chấp hành nhiệm vụ theo chỉ đạo của cấp trên), không ý thức được đầy đủ hành vi phạm tội, không vụ lợi; đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác và tích cực hợp tác.

Dự thảo nghị quyết xem xét áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt (Điều 59 Bộ luật Hình sự) đối với một số trường hợp cụ thể. Ảnh minh họa - ITN
Đã chủ động khai báo, tích cực hợp tác, góp phần hạn chế thiệt hại, nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, khắc phục toàn bộ hậu quả, bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Sau khi bị phát hiện đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, khắc phục toàn bộ hậu quả, bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Đặc biệt, dự thảo nghị quyết quy định khả năng không truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi phạm tội vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, không có khiếu nại (hoặc đã giải quyết dứt điểm), không tham nhũng, không gây thất thoát (hoặc đã khắc phục toàn bộ hậu quả) và dự án/công trình sai phạm đã được hoàn thành, mang lại hiệu quả.
Mặt khác, dự thảo nghị quyết cũng quy định việc truy cứu trách nhiệm hình sự khi người phạm tội thực hiện nhiều lần cùng một loại hành vi quy định tại Chương XXIII của Bộ luật Hình sự; việc xác định trị giá tài sản bị chiếm đoạt và thiệt hại do tội phạm tham nhũng, tội phạm khác về chức vụ gây ra.
Dự thảo nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao không chỉ là một văn bản hướng dẫn mà còn thể hiện sự nghiêm khắc trong xử lý tham nhũng, đồng thời mở rộng cánh cửa khoan hồng, đặc biệt đối với những cá nhân thành khẩn, hợp tác và có hành vi không vì vụ lợi, đặc biệt là những trường hợp “dám đột phá” vì lợi ích chung, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ý kiến bình luận:
Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!
(Thanh tra) - Mới đây, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 12/2025/TT-TANDTC quy định về thời hạn lưu trữ hồ sơ, tài liệu, trong đó có quy định chi tiết về nhóm tài liệu thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Quy định này đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn hóa công tác lưu trữ, đảm bảo tính hệ thống và phục vụ công tác kiểm tra, giám sát lâu dài trong ngành Tòa án.
B.S
(Thanh tra) - Luật Tương trợ tư pháp (TTTP) về dân sự vừa được Quốc hội thông qua vào ngày 26/11/2025. Luật gồm 4 chương, 38 điều đã kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng về tăng cường hợp tác quốc tế về pháp luật và hội nhập quốc tế trong tình hình mới; khắc phục những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện Luật TTTP năm 2007. Luật xác định Bộ Tư pháp là Cơ quan Trung ương của Việt Nam trong tương trợ tư pháp về dân sự.
Chu Tuấn
Trang Nguyệt
Trần Quý
Chu Tuấn
TS. Đinh Văn Minh (Nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế, TTCP)
B.S
Trần Quý
B.S
Hải Hà
Chính Bình
T. Minh
T.Vân
Bảo Anh
Đan Quế
Văn Thanh
Hương Giang
Cảnh Nhật