Nói tới giới trẻ là nói đến khả năng thích ứng, hội nhập, tiếp nhận cái mới một cách mạnh dạn, dám nghĩ dám làm. Điều mà những người già thường khao khát, bởi họ không còn trẻ, lại hay quá chắc chắn, đôi khi bảo thủ với những định kiến của mình.

Nói đến giới trẻ là nói đến tính hiện đại, tức có khả năng tham góp vào sự đổi mới, canh tân. Tuy nhiên, tính hiện đại trong giới trẻ luôn có tính hai mặt khi liên kết nó với vấn đề tôn giáo. Ngoài những mặt tích cực, ảnh hưởng của tính hiện đại đến giới trẻ cũng là mối lo ngại của nhiều tổ chức tôn giáo, biểu hiện qua một số điểm như: (1) Sự du nhập các luồng văn hóa mới, làm một bộ phận giới trẻ nhạt phai những yếu tố thuộc về tôn giáo, truyền thống, dân tộc; (2) Làn sóng đầu tư, lưu học sinh, di dân, hôn nhân với người nước ngoài, tạo ra sự đa văn hóa và đa dạng tôn giáo trong một số người trẻ; (3) Tính thuần nhất của các yếu tố văn hóa vùng, văn hóa tôn giáo không còn như trước đây dẫn đến một người trẻ có thể tiếp nhận nhiều luồng văn hóa, xuất hiện xu hướng lai căng, pha trộn và lệch chuẩn, không rõ căn tính nguồn gốc mình là gì; (4) Xã hội thông tin, tạo ra hiện trạng văn hóa mạng, kéo theo lối sống ảo, đề cao cái tôi cá nhân, tự do phát ngôn của bộ phận người trẻ; (5) Cơ chế thị trường, tạo ra mặt trái là văn hóa tiêu dùng, lối sống thực dụng, hưởng thụ, ít chia sẻ, được một số người trẻ ủng hộ.

Vấn đề đặt ra là, giới trẻ với một điều kiện thể lý và tinh thần tốt như vậy, lại sống trong các không gian hiện đại, có nhiều tiện ích trợ giúp, tạo ra một cảm giác đối với họ là ít có trở ngại trong suy nghĩ và hành động. Dường như cái lý tính, thậm chí là độ liều lĩnh, không biết sợ, dám nghĩ, dám làm đã lấn át đi cái phần cảm tính yếu đuối trong những con người đang sung sức, nhiệt huyết của tuổi trẻ. Với trạng thái như vậy, phải chăng giới trẻ chẳng cần gì đến tín ngưỡng, tâm linh, thần thánh hay một tổ chức tôn giáo nào đó để trợ lực tinh thần, luân lý và các giá trị nhân bản cho họ?

Để trả lời câu hỏi này, tất nhiên phải căn cứ vào các dữ liệu khảo sát xã hội học quy mô lớn và đúng phương pháp mới mong có kết quả chính xác. Dù vậy, hãy thử quan sát một số hiện tượng tín ngưỡng, tâm linh mỗi dịp Tết đến Xuân về.

Trước tiên, chúng ta thấy rằng các sinh hoạt của các “tôn giáo truyền thống” vẫn có sự tham gia của rất nhiều người trẻ. Nhiều nam thanh nữ tú vẫn lên chùa lễ Phật đầu năm, hoặc thắp hương nơi bàn thờ tổ tiên vào những dịp Tết.

Mùa Xuân, nhiều đội kiệu ở các hội làng vẫn có thanh niên hăng say khiêng rước. Nếu chúng ta du Xuân đất Bắc, rõ ràng các đền, đình, miếu, phủ dịp này chẳng phải chỉ giành riêng cho người già đi vãn cảnh. Vẫn có nhiều người trẻ đến đó, khấn vái, thắp hương và cầu cúng. Cho đến mỗi kỳ thi quan trọng như tuyển sinh vượt cấp, vẫn có những thí sinh vào sờ đầu cụ rùa đá đội bia tiến sĩ ở Văn Miếu, Hà Nội để cầu may. Rồi có những cô cậu lâu không có người yêu, sợ ế cũng bảo nhau đi cắt tiền duyên khi mỗi tuổi trôi qua vào dịp Tết đến Xxuân về. Đấy là chưa kể đến việc dâng sao giải hạn, cúng kiếng đầu năm, nhiều khi đến độ mù quáng, lệ thuộc, biến thành mê tín cũng có sự góp mặt của cả người trẻ…

Các chỉ báo trên phần nào phản ánh một thức tế rằng, tâm thức tôn giáo vẫn không mất đi trong lòng nhiều người trẻ dù là họ đang ở xã hội hiện đại. Nhưng qua hành vi tôn giáo, mấy hiện tượng đó cũng phản ánh một hiện thực xã hội còn bộn bề lo toan, có nhiều bất an trong lòng giới trẻ, đôi khi họ vẫn cần những trợ lực từ tâm linh, tôn giáo trước các thách thức của đời sống hiện thực.

Những hiện tượng trên thuộc về tín ngưỡng của người Việt. Nhìn chung những hành vi tín ngưỡng, tâm linh của người trẻ được quy định bởi các khuôn mẫu văn hóa truyền thống. Họ thực hành có thể theo thói quen, nhưng cũng có thể đang thực dụng tìm kiếm giải tỏa khỏi các áp lực của đời sống hiện đại đang đè nén.

Cũng có thể họ đến với thần thánh là từ lòng thành. Cũng có thể hành vi tôn giáo đó để mong chờ gửi gắm những hi vọng tốt đẹp hơn ở tương lai phía trước.

Với các tôn giáo có tổ chức chặt chẽ (tạm gọi là tôn giáo thể chế), giới trẻ được xem như tương lai nguồn lực của các giáo hội. Ở đó, vẫn có rất nhiều người trẻ giữ các sinh hoạt tôn giáo và truyền thống tín ngưỡng của mình. Dù vậy có một thực tế đang hiển hiện với giới trẻ cho dù họ thuộc về tín ngưỡng truyền thống hay một “tôn giáo thể chế” nào đó là: Họ đang bị cuốn hút mạnh mẽ bởi các mặt trái của lối sống thế tục. Có thể kể đến các loại tiêu khiển, giải trí đầy cám dỗ nhưng nguy hại như: Bia, rượu, cờ bạc,  ma túy, mại dâm; cũng có thể kể đến một lối sống hưởng thụ, dựa dẫm và ích kỷ, không biết chia sẻ; cũng có thể nói đến hiện tượng hư danh sống ảo, khoe cái tôi cá nhân và lệ thuộc công nghệ quá mức…  

Điều đáng nói là khi các giá trị thế tục lên ngôi trong một số người trẻ, đồng thời với nó là sự suy giảm các giá trị tôn giáo trong họ. Một số bạn trẻ sống xa rời các không gian tôn giáo của mình. Họ ít đì chùa, không thường xuyên đến nhà thờ vào Chúa nhật, hay vắng mặt cầu nguyện tại Thánh đường Islam vào các trưa thứ sáu... Những người trẻ thuộc diện này, họ đang sa vào mặt trái của các giá trị thế tục, hoặc của nhịp sống hiện đại, bị nó lôi cuốn mà sao nhãng, bỏ quên đi các thực hành tôn giáo. Như vậy, dù năng động cởi mở, nhiều nhiệt huyết nhưng những ưu điểm này của người trẻ cũng dễ biến thành yếu điểm nếu như họ không có một căn bản luân lý tốt, cuối cùng sa ngã vào các cám dỗ khác.

Nhìn chung các “tôn giáo thể chế” đang rất lo lắng tới hiện tượng lệch chuẩn của giới trẻ. Bởi lẽ họ sống trong thời kỳ hiện đại, ngoài cái hay, đang tồn tại nhiều nghịch lý có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới các thuộc tính tôn giáo của người trẻ. Tính hiện đại ngoài nhiều ưu điểm vượt trội cũng tạo ra những lo ngại không nhỏ tới giới trẻ thuộc các tôn giáo khác nhau, làm các tổ chức tôn giáo luôn bận tâm giải quyết.

Những điều lo ngại có thể kể đến như: (1) Sự trỗi dậy của lý tính bên cạnh tính thiêng của tôn giáo; (2) Đoạn tuyệt với vũ trụ luận của tôn giáo, thay thế nó bằng một thế giới của lý trí với các sản phẩm cụ thể, hữu ích của thế giới hiện đại, nhằm hiện thực hóa nhiều điều con người không thể đạt tới và lấy đó giải quyết các nhu cầu tinh thần của con người; (3) Thay thế không gian tôn giáo bằng các không gian hiện đại do con người tạo ra; (4) Áp dụng hiện đại khoa học vào giải thiêng và giải luân lý tôn giáo; (5) Sử dụng tôn giáo như chất liệu để làm “công nghiệp văn hóa”, tạo ra các sản phẩm văn hóa nhiều lợi nhuận, đậm tính thế tục như: Điện ảnh, kiến trúc, sản phẩm văn hóa, du lịch tôn giáo… (6) Sự trỗi dậy của văn hóa thế tục và các giá trị thế tục bên cạnh giá trị tôn giáo.

Tóm lại, hiện đại hóa làm cho các diện mạo của văn hóa thế tục tăng lên và diện mạo của văn hóa tôn giáo giảm đi. Các tôn giáo luôn phải thích ứng và hội nhập với tính hiện đại, trong đó có việc phải chon lựa là chấp nhận hay giảm tải các giá trị văn hóa thế tục trong tôn giáo của mình. Với không ít người trẻ, dường như văn hóa thế tục có xu hướng giải thiêng đi các thuộc tính tôn giáo trong họ.

Nhưng sau mọi toan tính của đời sống, mọi thú vui trần tục, những trải nghiệm, các nan đề của cuộc sống vẫn tồn tại, không được giải quyết triệt để. Lúc đó người ta lại tìm các giá trị nhân bản của con người qua các tôn giáo, hoặc qua các khuôn mẫu văn hóa truyền thống để định hướng giới trẻ. Một hiện tượng xuất hiện gần đây trong xã hội ta là: Không ít người sau khi nghỉ hưu, rời bỏ công việc, thậm chí một số từng đảm nhiệm cả nhiều chức tước, tham vọng, quyền lực về già lại tìm đến tôn giáo. Phải chăng những giá trị thế tục mà họ trải qua vẫn không đáp ứng các yêu cầu nhân bản của con người? Phải chăng họ vẫn cảm thấy yếu đuối, cô đơn, trống rỗng và dễ đổ vỡ trong xã hội hiện đại đời thực?

Tất nhiên, thật khó nói với những người trẻ đang mải mê các giá trị thế tục rằng, hãy trở về với các giá trị tôn giáo hay văn hóa truyền thống của mình như những trường hợp người già kể trên. Điều này cần nỗ lực từ phía gia đình cũng như của các tổ chức tôn giáo. Tuy nhiên, có một thực tế không thể phủ nhận, tôn giáo với một thiết chế lành mạnh thường tạo ra các giá trị luân lý, đạo đức có tính chất đề kháng tốt với mặt trái của đời sống xã hội. Mặt khác, người có một niềm tin tôn giáo trưởng thành vẫn có thể hội nhập tốt với xã hội hiện đại mà không sợ mất căn tính của mình.

Rõ ràng, dù có sự tăng đáng kể tính hiện đại trong đời sống hiện nay, nhưng tôn giáo và các giá trị văn hóa truyền thống vẫn có một vị cần thiết với con người, nhất là giới trẻ. Nhưng làm gì để những giá trị đó trở thành một nền tảng căn cốt trong cho suy nghĩ và hành vi của giới trẻ? Điều đó phụ thuộc vào chính chủ thể giới trẻ cũng như các môi trường văn hóa và  tôn giáo đã và đang nuôi dưỡng họ.

                                                                                

TS Ngô Đồng