Nội dung này được đề cập trong báo cáo kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện các quy định pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng đối với xuất khẩu” của Ủy ban Tài chính Ngân sách.

Hồ sơ hoàn thế “vô cùng lớn”, đánh giá lại… thủ công

Dù quy định về quản lý rủi ro trong hoàn thuế đã được nhắc đến từ năm 2016, nhưng đến ngày 18/9/2023, Tổng cục Thuế mới chính thức ban hành Quyết định số 1388 về việc áp dụng quản lý rủi ro trong phân loại hồ sơ hoàn thuế VAT và lựa chọn người nộp thuế để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế.

Số lượng hồ sơ hoàn thuế cùng với số hoá đơn liên quan “vô cùng lớn”. Nhưng, theo báo cáo của Tổng cục Thuế và theo phản ánh của một số cục thuế, hiện trong ngành Thuế vẫn chưa có một ứng dụng quản lý rủi ro nào được sử dụng để hỗ trợ phân loại và giải quyết hồ sơ hoàn thuế.

Từ thực tế này, Ủy ban Tài chính Ngân sách nhấn mạnh, phân loại hồ sơ và lựa chọn doanh nghiệp để xây dựng kế hoạch thanh tra hoàn thuế VAT hoàn toàn được các cục thuế thực hiện thủ công trên cơ sở phân tích thông tin sẵn có.

“Việc đánh giá rủi ro và phân loại hồ sơ để giải quyết hoàn thuế còn thiên về định tính và ít nhiều phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các cán bộ trực tiếp làm công tác hoàn thuế”, cơ quan giám sát báo cáo Quốc hội, “điều này phần nào cũng sẽ dễ gây ra nhưng “kẽ hở” trong công tác quản lý hoàn thuế VAT”.

Số liệu cho thấy, từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2023, ngành Thuế tiếp nhận 101.426 hồ sơ đề nghị hoàn thuế, tương ứng số thuế đề nghị hoàn 712.680 tỷ đồng. Cơ quan thuế đã giải quyết hoàn thuế với 96.046 hồ sơ, tương ứng số tiền thuế đã hoàn trên 646.200 tỷ đồng.

Tỷ lệ hồ sơ được thanh tra, kiểm tra sau hoàn mỗi năm dao động khoảng 30-50% tổng hồ sơ hoàn trước. Số tiền phát hiện khi thanh tra, kiểm tra sau hoàn không thay đổi lớn qua các năm, dao động khoảng 0,2-0,5% số tiền hoàn trước. Vì vậy, theo Ủy ban Tài chính Ngân sách, cần thiết phải phân loại hồ sơ để bảo đảm thực hiện kiểm tra, thanh tra sau hoàn với những hồ sơ có độ rủi ro cao hơn trong những hồ sơ đã được hoàn trước.

Mức độ thực hiện chỉ đạo chống gian lận thuế “rất khác nhau”

Liên quan đến chống gian lận thuế VAT, Tổng cục Thuế đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, khi từ năm 2020-2023 có “ít nhất 27 văn bản”. Đây là các văn bản cảnh báo rủi ro hoàn thuế VAT và hướng dẫn nghiệp vụ, trong đó yêu cầu các cục thuế đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra; thực hiện rà soát xác minh việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ đầu vào qua các khâu, cũng như xác minh đầu ra của doanh nghiệp.

Một số các ngành hàng được Tổng cục Thuế cảnh báo trong các văn bản, gồm các lĩnh vực: Gỗ dăm, viên nén, gỗ thành phẩm; tinh bột sắn; cao su; linh kiện điện, điện tử, điện thoại.

Theo nhận xét của Ủy ban Tài chính Ngân sách, các văn bản này đã chỉ đạo không rõ ràng, dễ dẫn đến cách hiểu toàn bộ các hồ sơ của doanh nghiệp trong lĩnh vực được cảnh báo đều cần được rà soát, xác minh chi tiết.

“Trên thực tế, cách hiểu và mức độ thực hiện các công văn tại các cục thuế cũng rất khác nhau”, báo cáo giám sát nêu.

Minh chứng tại Văn bản số 1167 vào đầu tháng 10, Ban Dân nguyện thông tin trong cùng thời gian một số công ty (như Công ty An Phát tại Cục Thuế Hà Nội, Công ty Focovev tại Cục Thuế TP HCM) bị dừng hoàn thuế để thực hiện kiểm tra, xác minh thì có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu khác trên toàn quốc (có chung khách hàng Trung Quốc) đã được các cục thuế địa phương khác giải quyết hoàn thuế. Các doanh nghiệp này có cam kết bị truy thu nếu phát hiện đề nghị hoàn sai.

Qua giám sát tại các cục thuế, Ủy ban Tài chính Ngân sách nêu, yêu cầu phải xác minh đến khâu cuối cùng là thu mua từ người dân hoặc xác minh đến người nhập khẩu ở nước ngoài là một gánh nặng. Về cơ bản, yêu cầu về kiểm tra, xác minh trước hoàn là không thể thực hiện được trong thời hạn 40 ngày theo quy định.

Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gỗ, sản phẩm gỗ, cao su, dăm gỗ đã phải “chờ đợi rất lâu mà chưa được hoàn thuế”, theo cơ quan giám sát.

“Việc dừng hoàn để thực hiện rà soát, xác minh theo yêu cầu nghiệp vụ của Tổng cục Thuế trong nhiều trường hợp sẽ khó có thể phù hợp quy định của pháp luật là dừng hoàn chỉ được thực hiện khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật”, báo cáo nêu.

Trước 31/12/2023, giải quyết dứt điểm hồ sơ đề nghị hoàn thuế còn tồn đọng

Năm 2022, nhất là 6 tháng đầu năm 2023, việc giải quyết hoàn thuế chậm hơn so với các năm trước, khi hồ sơ hoàn đã giải quyết chỉ đạt 79% hồ sơ đề nghị. Tại thời điểm 31/6/2023, có 1.839 hồ sơ tồn - đang trong quá trình giải quyết của cơ quan thuế và chưa được hoàn.

Số hồ sơ tồn này, Tổng cục Thuế báo cáo, đến hết tháng 8 đã được giải quyết đáng kể và chỉ còn lại 647 hồ sơ, trong đó có 50 hồ sơ vướng mắc về chính sách đang chờ hướng dẫn của cấp có thẩm quyền; 30 hồ sơ chuyển cơ quan công an phối hợp điều tra, xác minh; 45 hồ sơ gửi cơ quan thuế nước ngoài hỗ trợ trao đổi thông tin…

Cơ quan giám sát cho rằng, tính theo tỷ lệ %, số lượng hồ sơ tồn “hoàn toàn không lớn”, nhưng các vướng mắc mang tính hệ thống với một số nhóm ngành hàng xuất khẩu cần được tập trung giải quyết thấu đáo, đặc biệt là 3 nhóm: Tinh bột sắn; gỗ, dăm gỗ, sản phẩm gỗ và cao su.

Qua giám sát, cơ quan này kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện văn bản pháp luật về hoàn thuế VAT.

Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế khẩn trương hoàn thành việc rà soát tổng thể các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của ngành Thuế đã ban hành về hoàn thuế để có biện pháp điều chỉnh phù hợp.

Cùng với đó, trước ngày 31/12/2023, giải quyết, xử lý dứt điểm số hồ sơ đề nghị hoàn còn tồn đọng của một số ngành hàng xuất khẩu đang gặp vướng mắc, đặc biệt là với các hồ sơ đã dừng hoàn trong thời gian dài gây bức xúc cho doanh nghiệp.

Hương Giang