Theo dõi Báo Thanh tra trên
B.S
Thứ tư, 17/12/2025 - 13:03
(Thanh tra) - Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) với 15 chương, 180 điều, sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2026, đã có những quy định cụ thể và chi tiết về việc tố cáo và giải quyết tố cáo trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nhằm đảm bảo tính thượng tôn pháp luật và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) được Quốc hội thông qua chiều ngày 10/12/2025 với 437/438 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành. Ảnh: Duy Linh
Phạm vi chủ thể có quyền tố cáo
Khác với những quy định chung, Điều 170 của Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) đã cụ thể hóa đối tượng được phép thực hiện quyền tố cáo trong lĩnh vực đặc thù này. Theo đó, quyền tố cáo không chỉ dành riêng cho người chấp hành án – đối tượng trực tiếp chịu sự quản lý và tác động của hoạt động thi hành án, mà còn mở rộng cho mọi công dân.
Cụ thể, Điều 170 nêu rõ: “Người chấp hành án và mọi công dân có quyền tố cáo với cơ quan, người có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ người có thẩm quyền nào trong thi hành án hình sự mà gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”
Việc mở rộng chủ thể tố cáo cho thấy cơ chế giám sát xã hội đối với hoạt động thi hành án được tăng cường, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong việc phát hiện và xử lý tiêu cực.
Bên cạnh đó, để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, Điều 171 của Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) đã quy định nguyên tắc áp dụng các quyền và nghĩa vụ liên quan đến tố cáo như sau: “Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo trong thi hành án hình sự được thực hiện theo quy định của Luật Tố cáo”.
Bằng cách viện dẫn trực tiếp Luật Tố cáo, Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) đã tránh được sự chồng chéo, mâu thuẫn trong việc xác định các quyền cơ bản (như quyền giữ bí mật thông tin người tố cáo, quyền được biết kết quả giải quyết) và nghĩa vụ pháp lý (như nghĩa vụ cung cấp thông tin trung thực, chịu trách nhiệm về nội dung tố cáo) của người tố cáo và người bị tố cáo. Điều này tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc, dễ áp dụng và bảo đảm sự công bằng.
Thẩm quyền giải quyết chặt chẽ và phân định rõ ràng
Một trong những điểm quan trọng nhất của Luật sửa đổi là việc phân định rõ ràng thẩm quyền giải quyết tố cáo, nhằm tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm và bảo đảm tính khách quan. Điều 172 Khoản 1 đã quy định chi tiết thẩm quyền giải quyết tố cáo theo nguyên tắc cấp quản lý, với các điểm đáng chú ý sau:
Thứ nhất, nguyên tắc quản lý trực tiếp, Điểm a quy định: “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của người thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó.” Đây là nguyên tắc cơ bản và thường xuyên nhất trong xử lý nội bộ.
Thứ hai, phân cấp quản lý chuyên ngành. Luật đã xác định rõ thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với các cơ quan chuyên môn và địa phương, cụ thể:
Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của Chủ tịch UBND cấp xã (Điểm b).
Giám đốc Công an cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh và Trưởng Công an cấp xã (Điểm c).
Tư lệnh Quân khu và tương đương giải quyết tố cáo đối với Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu (Điểm d).
Bộ trưởng Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giải quyết tố cáo đối với Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc phạm vi quản lý của mình (Điểm đ).
Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý, giáo dục cải tạo phạm nhân của người được giao quản lý, giáo dục cải tạo phạm nhân (Điểm e).
Quy định thời hạn và xử lý tố cáo có dấu hiệu tội phạm
Để đảm bảo việc giải quyết tố cáo được kịp thời, tránh kéo dài, Điều 172 Khoản 2 quy định: “Thời hạn giải quyết tố cáo là không quá 30 ngày kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; đối với vụ việc phức tạp thì có thể gia hạn giải quyết tố cáo một lần nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc đặc biệt phức tạp thì có thể gia hạn giải quyết tố cáo 2 lần, mỗi lần không quá 30 ngày”.
Tổng thời gian tối đa để giải quyết một vụ việc đặc biệt phức tạp có thể lên đến 90 ngày, thể hiện sự linh hoạt nhưng vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của kỷ luật thời gian.
Đặc biệt, Khoản 3 của Điều 172 quy định: “Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm được giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.” Quy định này là cầu nối pháp lý quan trọng, bảo đảm khi tố cáo vượt quá giới hạn vi phạm hành chính, kỷ luật và có dấu hiệu hình sự, thì phải được chuyển giao và xử lý theo quy trình điều tra, truy tố, xét xử, tránh bỏ lọt tội phạm.
Trách nhiệm của người giải quyết tố cáo
Điều 173 quy định về trách nhiệm giải quyết tố cáo, đây là chế tài quan trọng nhất nhằm ràng buộc người có thẩm quyền.
Theo đó, Khoản 1 Điều 173 quy định: “Cơ quan, người có thẩm quyền, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết tố cáo kịp thời, đúng pháp luật; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm cho quyết định giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình”.
Cùng với đó, để tăng cường tính răn đe, Khoản 2 Điều 173 cũng quy định rõ hậu quả pháp lý đối với người không thực hiện đúng trách nhiệm: “Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo mà không giải quyết, thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết, giải quyết trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.”
Quy định này thiết lập cơ chế "xử lý kép": Vừa xử lý theo quy định nội bộ (kỷ luật), vừa có thể bị xử lý hình sự và kèm theo trách nhiệm dân sự (bồi thường thiệt hại), đảm bảo rằng sự thiếu trách nhiệm hay cố ý vi phạm trong quá trình giải quyết tố cáo sẽ phải đối mặt với hậu quả pháp lý nghiêm khắc.
Có thể nói, các quy định chi tiết từ Điều 170 đến Điều 173 của Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) đã tạo ra một khung pháp lý vững chắc, minh bạch và có tính răn đe cao cho hoạt động tố cáo và giải quyết tố cáo. Điều này không chỉ bảo vệ quyền lợi chính đáng của người chấp hành án và công dân, mà còn củng cố niềm tin vào sự công bằng, nghiêm minh của hoạt động thi hành án hình sự tại Việt Nam.
Ý kiến bình luận:
Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!
(Thanh tra) - Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) với 15 chương, 180 điều, sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2026, đã có những quy định cụ thể và chi tiết về việc tố cáo và giải quyết tố cáo trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nhằm đảm bảo tính thượng tôn pháp luật và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
B.S
(Thanh tra) - Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 10 đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý về thi hành án hình sự. Đặc biệt, các quy định mới về khiếu nại và giải quyết khiếu nại không chỉ củng cố quyền và lợi ích hợp pháp của người chấp hành án mà còn nâng cao trách nhiệm, tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền.
B.S
Văn Thanh
Bảo San - Trần Huy
Chu Tuấn
Cảnh Nhật
Hương Giang
Minh Nguyệt
PV
Thùy Dương
Cảnh Nhật
Chính Bình
B.S
Hải Lương
Nam Dũng
Kim Thành
Hải Phong