Ca khúc: Tự hào người làm báo Thanh tra

Bà Nhân có quyền khởi kiện ra tòa

Mạnh Hùng

Chủ nhật, 14/03/2021 - 22:36

(Thanh tra) - Tại quyết định ký ngày 9/3/2021, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa Lê Đức Giang khẳng định khiếu nại của bà Nguyễn Thị Nhân (số nhà 06/71, đường Lê Lai, phường Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa) không có cơ sở. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại này thì bà Nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Phối cảnh Dự án Khu đô thị Xanh - khu Nam trung tâm thành phố Thanh Hóa. Ảnh: https://batdongsan.com.vn

Hồ sơ, giấy tờ liên quan đến khu đất bà Nhân khiếu nại

 a) Bản đồ đo vẽ theo Chỉ thị 299 của xã Đông Hương năm 1984 thể hiện vị trí thửa đất bà Nguyễn Thị Nhân khiếu nại thuộc các thửa

Thuộc một phần thửa đất số 837, tờ bản đồ số 3, diện tích 1.371m2, loại đất ĐM (đất màu); Sổ mục kê ghi tên chủ sử dụng đất là Đội 2 (HTX nông nghiệp Đông Hương) xứ đồng Mã Ngọ và một phần diện tích của đất sông Quảng Châu (trên bản đồ không ghi số thửa).

Thuộc một phần thửa số 840, tờ bản đồ số 3, diện tích 126 m2 , loại đất ĐM (đất màu); sổ mục kê ghi tên chủ sử dụng đất là Đội 2 (HTX nông nghiệp Đông Hương) xứ đồng Mã Ngọ và một phần thửa số 912, tờ bản đồ số 3, diện tích 195m2 , loại đất cồn; sổ mục kê ghi tên chủ sử dụng đất là UB (Ủy ban) và một phần diện tích của đất sông Quảng Châu (trên bản đồ không ghi số thửa).

b) Bản đồ địa chính phường Đông Sơn năm 1995 thể hiện vị trí thửa đất bà Nguyễn Thị Nhân khiếu nại thuộc một phần các thửa

Thuộc một phần thửa số 8, tờ bản đồ số 2, diện tích 351m2 , loại đất Hg; Sổ mục kê ghi chủ sử dụng đất là UBND phường và phần đất không đo đạc vào bản đồ thuộc đất bờ sông nhà Lê, đoạn sông Cụt (đất khai hoang thêm của gia đình bà Ấu).

Thuộc một phần thửa số 9, tờ bản đồ số 2, diện tích 162 m2 , loại đất Hg; Sổ mục kê ghi chủ sử dụng đất là UBND phường và phần đất không đo đạc vào bản đồ thuộc đất bờ sông nhà Lê, đoạn sông Cụt (đất khai hoang thêm của gia đình bà Ấu).

c) Bản đồ địa chính đo vẽ phường Đông Sơn năm 2012 thể hiện vị trí thửa đất bà Nguyễn Thị Nhân khiếu nại thuộc một phần các thửa

Thuộc một phần thửa số 64, tờ bản đồ số 2, diện tích 251m2 , loại đất TSN; Sổ mục kê ghi chủ sử dụng đất là ông Nguyễn Đình Hoàng (em trai bà Nguyễn Thị Nhân).

Thuộc thửa số 50, tờ bản đồ số 3, diện tích 206,5m2, loại đất ODT; Sổ mục kê ghi chủ sử dụng đất là bà Nguyễn Thị Nhân.

d) Trích đo địa chính khu đất được Công ty Cổ phần Trích đo tài nguyên môi trường Phương Hà đo vẽ, được Sở Tài nguyên và môi trường thẩm định ngày 12/3/2014 thể hiện vị trí thửa đất bà Nhân khiếu nại tại các thửa

Thửa số 30, trích đo bản đồ khu đất số 12, diện tích 183,2 m2 , loại đất BHK.

Thửa số 36, trích đo bản đồ khu đất số 12, diện tích 185,6 m2 , loại đất ODT.

Nguồn gốc và quá trình sử dụng đất

 Khu đất bà Nguyễn Thị Nhân khiếu nại có nguồn gốc trước đây là bà Nguyễn Thị Ấu khai hoang thêm, ngoài diện tích được giao, sử dụng vào mục đích nông nghiệp thuộc khu xứ đồng Mã Ngọ.

Năm 1994 - 1995, khi lập hồ sơ địa giới hành chính, đo đạc bản đồ 364, đất nông nghiệp khu vực xứ đồng Mã Ngọ đã giao về UBND phường Đông Sơn quản lý. Các hộ nông nghiệp xã Đông Hương trong đó có hộ bà Nguyễn Thị Ấu xâm canh, sử dụng canh tác nông nghiệp.

Năm 2002, bà Nguyễn Thị Ấu cho bà Nguyễn Thị Nhân theo Giấy trao đất được Hợp Tác xã nông nghiệp Đông Hương xác nhận ngày 15/6/2002. Tại thời điểm năm 2002, bà Ấu vẫn sử dụng khu đất vào mục đích nông nghiệp, chưa có công trình xây dựng trên đất.

Khu đất bà Nguyễn Thị Nhân đang khiếu nại chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không có một trong những loại giấy tờ theo quy định tại Điều 100, Luật Đất đai năm 2013 và Điều 18, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.

Kết quả xác minh nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất đối với khu đất bà Nguyễn Thị Nhân của Thanh tra thành phố Thanh Hóa cho thấy, hộ bà Nguyễn Thị Nhân xây dựng nhà ở trên một phần khu đất do gia đình khai hoang (không thuộc thửa đất nông nghiệp được giao diện tích 236m2), ổn định, không tranh chấp, thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định vào mục đích để ở từ sau ngày 15/10/1993, trước ngày 01/7/2004 đến thời điểm Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị Xanh - khu Nam trung tâm thành phố Thanh Hóa.

Hiện trạng sử dụng đất

 Tại thời điểm kiểm kê thu hồi đất năm 2018, tổng diện tích 368,8m2 đất bà Nguyễn Thị Nhân đang khiếu nại tại 02 thửa, gồm:

Thửa đất số 36, trích đo bản đồ khu đất số 12, diện tích 185,6 m2: Một phần bà Nhân xây nhà ở và công trình sinh hoạt khép kín, một phần bà Nhân trồng cây, hoa màu hàng năm.

Thửa đất số 30, trích đo bản đồ khu đất số 12, diện tích 183,2 m2 : Bà Nguyễn Thị Nhân trồng cây, hoa màu hàng năm, không có nhà ở.

Nhận xét, kết luận của lãnh đạo tỉnh

 Hộ bà Nguyễn Thị Nhân xây dựng nhà ở trên một phần thửa đất số 36, trích đo bản đồ khu đất số 12, diện tích 185,6 m2, loại đất ODT, sử dụng ổn định, không tranh chấp, phần còn lại trồng cây hằng năm, thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định vào mục đích để ở từ sau ngày 15/10/1993, trước ngày 01/7/2004 đến khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị Xanh - khu Nam trung tâm thành phố Thanh Hóa.

Bà Nguyễn Thị Nhân đã có đơn thống nhất với kết quả giải quyết lần đầu tại Quyết định số 4628/QĐ- UBND ngày 29/6/2020 của Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa về kết quả xác minh nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất của gia đình bà và xin rút khiếu nại lần 2 về nội dung yêu cầu được bồi thường toàn bộ diện tích 368,8 m2 đất ở.

Chủ tịch UBND tỉnh đã có quyết định đình chỉ giải quyết nội dung khiếu nại trên của bà Nguyễn Thị Nhân.

Theo Khoản 5, Điều 103, Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Đối với trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 của Luật này mà đất đã sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 thì diện tích đất ở được xác định theo mức quy định tại khoản 4 Điều này; trường hợp đất đã sử dụng ổn định kể từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 thì diện tích đất ở được xác định theo mức đất ở giao cho mỗi hộ gia đình, cá nhân quy định tại khoản 2 Điều 143 và khoản 4 Điều 144 của Luật này”.

Theo Điểm a, Khoản 2, Điều 20, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ qui định: "Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng khác trong thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004; nay được UBND cấp xã xác nhận là không có tranh chấp sử dụng đất; phù hợp với quy hoạch hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đất đã sử dụng từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa có quy hoạch; chưa có thông báo hoặc quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp phải thu hồi thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:

a) Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức giao đất ở quy định tại Khoản 2 Điều 143 và Khoản 4 Điều 144 của Luật Đất đai (sau đây gọi là hạn mức giao đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở”.

Theo Điểm a, Khoản 1 Điều 7, Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ qui định: “1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất và tại thời điểm bắt đầu sử dụng đất không có một trong các hành vi vi phạm theo quy định tại Điều 22 Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, nếu được cấp Giấy chứng nhận thì thu tiền sử dụng đất như sau:

a) Trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có nhà ở thì phải nộp tiền sử dụng đất bằng 50% tiền sử dụng đất đối với diện tích đất trong hạn mức giao đất ở theo giá đất quy định tại Bảng giá đất; đối với diện tích đất ở vượt hạn mức (nếu có) thì phải nộp bằng 100% tiền sử dụng đất theo giá đất quy định Điểm b, Điểm c Khoản 3 Điều 3 Nghị định này tại thời điểm có quyết định công nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền".

Theo Điểm a, Khoản 1, Điều 3, Quyết định số 4463/2014/QĐ-UBND ngày 12/12/2014 của UBND tỉnh Thanh Hóa: “Hạn mức giao đất ở cho mỗi hộ gia đình cá nhân tại phường thuộc thành phố, thị xã tối đa là 90 m2”.

Theo kết quả xác minh nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất, bà Nguyễn Thị Nhân được bồi thường diện tích là 90 m2 đất ở trong hạn mức giao đất ở, phần diện tích còn lại được bồi thường hỗ trợ theo hiện trạng. Việc Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa giải quyết lần đầu tại Quyết định số 4628/QĐ- UBND ngày 29/6/2020, xác định bà Nhân được bồi thường 125 m2 đất ở là có sự nhầm lẫn giữa hạn mức giao đất ở (90m2) với hạn mức công nhận đất ở (125m2), do vậy phải thực hiện việc đính chính là cần thiết.

Việc Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa ban hành Quyết định số 6440/QĐ-UBND ngày 19/8/2020 đính chính Quyết định số 4628/QĐ-UBND ngày 26/9/2020 về giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị Nhân với nội dung: Hộ bà Nguyễn Thị Nhân được bồi thường theo hạn mức giao đất ở 90m2 nhưng phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định; phần diện tích còn lại được bồi thường giá đất nông nghiệp trồng cây hàng năm là đúng quy định của pháp luật.

Việc bà Nguyễn Thị Nhân khiếu nại, không đồng ý với Quyết định số 6440/QĐ-UBND ngày 19/8/2020 của Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa đính chính Quyết định số 4628/QĐ-UBND ngày 29/6/2020 của Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa về việc giải quyết khiếu nại của bà là không có cơ sở.

Từ kết quả thẩm tra xác minh, kết luận và các căn cứ pháp luật nêu trên, tại quyết định ngày 9/3/2021, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa Lê Đức Giang đã nhấn mạnh: Bà Nguyễn Thị Nhân khiếu nại đối với Quyết định số 6440/QĐ-UBND ngày 19/8/2020 của Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa về đính chính Quyết định số 4628/QĐ-UBND ngày 29/6/2020 của Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị Nhân là không có cơ sở.

Ý kiến bình luận:

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!

Tin cùng chuyên mục

Tin mới nhất

Xem thêm