Ca khúc: Tự hào người làm báo Thanh tra

Theo dõi Báo Thanh tra trên

Doanh nghiệp khai thác cảng "vượt sóng"

Nguyễn Đông Hà

Thứ hai, 09/12/2024 - 15:24

(Thanh tra) - Theo các chuyên gia, dòng vốn FDI vào Việt Nam sẽ duy trì ổn định, tiếp tục thúc đẩy hoạt động thương mại và duy trì đà tăng trưởng cho các doanh nghiệp khai thác cảng. Điều này không chỉ giúp nâng cao năng lực ngành cảng biển mà còn tạo ra nhiều cơ hội để các doanh nghiệp mở rộng thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế.

Ngôi sao đang lên

Theo đánh giá của nhóm phân tích thuộc VnDirect Research, ngành cảng biển Việt Nam đang dần trở thành một ngôi sao sáng trên bản đồ kinh tế toàn cầu nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của dòng vốn FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài) và khả năng tận dụng các lợi thế về vị trí chiến lược và cơ sở hạ tầng hiện đại.

“Trong những năm gần đây, Việt Nam đã khẳng định là một nền kinh tế mở, hội nhập sâu rộng vào thị trường toàn cầu. Việc chuyển từ thâm hụt sang thặng dư thương mại kể từ năm 2012 đánh dấu một cột mốc quan trọng, nhấn mạnh hiệu quả của các chính sách cải cách và hội nhập của đất nước”, chuyên gia phân tích Đặng Huy Hoàng của VnDirect Research nhận định.

Theo VnDirect Research, trong 9 tháng đầu năm 2024, hầu hết các doanh nghiệp khai thác cảng đều ghi nhận hiệu suất tích cực so với mức nền thấp của năm trước. Ảnh minh họa/VGP

Dòng vốn FDI đã đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam, nơi các doanh nghiệp FDI chiếm hơn 70% tổng giá trị xuất khẩu. Làn sóng FDI thứ ba (2015-2019) góp phần lớn vào sự bùng nổ hoạt động xuất – nhập khẩu, giúp Việt Nam vươn lên trở thành một trung tâm thương mại năng động trong khu vực.

Tốc độ tăng trưởng ấn tượng của hoạt động thương mại Việt Nam từ năm 2007 đến 2023, với tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 12,1%, đã thúc đẩy nhu cầu vận chuyển hàng hóa qua các cảng biển. Tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ này đã thúc đẩy đáng kể nhu cầu vận chuyển hàng hóa qua các cảng biển, được phản ánh qua CAGR là 5,45% sản lượng cảng biển.

Mặc dù hoạt động thương mại giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước trong năm 2023, sản lượng cảng biển lại tăng 6,5%. Điều này cho thấy dù có sự sụt giảm trong nhóm ngành điện thoại và linh kiện, ngành cảng biển vẫn duy trì sự phát triển ổn định nhờ vào các yếu tố khác như sự tăng trưởng của các ngành xuất khẩu khác và sự cải thiện trong cơ sở hạ tầng cảng biển.

Bên cạnh đó, vị trí địa lý thuận lợi và khả năng kết nối cao đã giúp ngành cảng biển Việt Nam tận dụng tối đa lợi thế từ sự gia tăng hoạt động thương mại toàn cầu. Chỉ số kết nối toàn cầu (LSCI) của Việt Nam đã liên tục tăng kể từ năm 2013, đạt 409,1 điểm vào quý II/2024, nâng Việt Nam lên vị trí thứ 8 trong bảng xếp hạng. Sự cải thiện đáng kể này là kết quả của việc phát triển các cụm cảng lớn, với tiềm năng phát triển cảng nước sâu và đường bờ biển dài, giúp Việt Nam tăng cường khả năng kết nối với các tuyến vận tải biển quốc tế.

Theo Cục Hàng hải Việt Nam (VMA), số lượng tàu lớn ra vào các cảng Việt Nam đã tăng mạnh trong năm năm qua, từ 4.538 lượt tàu vào năm 2019 lên 5.474 lượt tàu vào năm 2023, đánh dấu mức tăng 20,6%. Cụm cảng Cái Mép – Thị Vải, với khả năng phục vụ các tàu lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các tuyến quốc tế, từ châu Á đến Mỹ và châu Âu.

Cảng Vũng Tàu, một trong những cảng lớn nhất của Việt Nam, đã chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc trong số lượt tàu lớn cập cảng, từ hơn 300 lượt vào năm 2013 lên hơn 2.100 lượt vào năm 2023. Hiện nay, cảng này có thể tiếp nhận các tàu container có trọng tải từ hơn 80.000 DWT đến hơn 232.000 DWT. Bên cạnh đó, thời gian neo đậu tại các cảng Việt Nam được ước tính vào khoảng 10-15 giờ, thấp hơn mức trung bình toàn cầu, cho thấy hiệu quả của các hoạt động xử lý hàng hóa và cơ sở hạ tầng cảng.

Theo chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long, cảng biển đóng vai trò then chốt trong hoạt động thương mại quốc tế, vì vậy việc duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng cảng biển hiện đại là yếu tố quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Dòng vốn FDI có vai trò quan trọng trong việc nâng cấp cơ sở hạ tầng này, qua đó thúc đẩy khả năng kết nối Việt Nam với các thị trường quốc tế.

“Đầu tư vào cảng biển không chỉ giúp gia tăng khả năng thông quan và giảm chi phí logistics, mà còn nâng cao hiệu quả vận chuyển hàng hóa. Sự phát triển này giúp Việt Nam tăng cường khả năng cạnh tranh trong việc thu hút đơn hàng xuất khẩu. Với những lợi thế sẵn có, nếu được khai thác hiệu quả, ngành cảng biển Việt Nam không chỉ thúc đẩy thương mại quốc tế mà còn đóng góp vào sự phát triển kinh tế bền vững của đất nước trong những năm tới”, ông Long nhấn mạnh.

Hai gã khổng lồ

Vẫn theo VnDirect Research, ngành cảng biển Việt Nam đang được dẫn dắt bởi hai gã khổng lồ là Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn (SNP) và Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam - Vinalines (MVN). Đây là hai doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực cảng biển và đều nằm trong nhóm các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động hiệu quả nhất từ năm 2020 đến 2023.

SNP là công ty hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực khai thác cảng, dịch vụ logistics, vận tải và ngành hàng hải. Công ty đã phát triển một hệ sinh thái đa dạng, kết nối các trung tâm logistics, cảng cạn (ICD), cảng cửa ngõ và cảng nước sâu, đồng thời duy trì mối liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các hãng tàu, cơ quan chính phủ và các hiệp hội. SNP tập trung vào phát triển bền vững, kinh tế số, kinh tế xanh và sử dụng năng lượng sạch. Hiện tại, SNP sở hữu 16 cơ sở cảng, trong đó HICT và SICT là hai cảng nổi bật nhất. Theo ước tính, SNP chiếm khoảng 39,4% thị phần container của Việt Nam, với sản lượng thông qua đạt 9,75 triệu TEU.

MVN (niêm yết trên sàn UPCOM) là một doanh nghiệp cốt lõi trong ngành hàng hải Việt Nam, chuyên về vận tải biển, khai thác cảng và dịch vụ hàng hải. MVN là đơn vị tiên phong trong việc mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế, cung cấp các dịch vụ hàng hải toàn cầu và đóng góp đáng kể vào sự phát triển của ngành kinh tế hàng hải Việt Nam. Kể từ năm 2020, VIMC đã hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần. MVN còn sở hữu một số công ty niêm yết nổi bật như PHP, SGP, VOS và CDN.

Báo cáo tài chính cho thấy, trong 9 tháng đầu năm 2024, doanh thu của SNP tăng 16,2%, trong khi lợi nhuận toàn hệ thống tăng 35,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Đối với MVN, lợi nhuận hợp nhất sau thuế trong 6 tháng đầu năm 2024 đã tăng khoảng 715 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước. Tăng trưởng mạnh mẽ trong doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp khai thác cảng như SNP và MVN cho thấy sự phục hồi và phát triển ổn định của ngành cảng biển Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với nhiều thách thức.

Dù ngành cảng biển Việt Nam đang hưởng lợi từ nhiều yếu tố, các chuyên gia cảnh báo vẫn tồn tại những rủi ro tiềm ẩn cần đặc biệt lưu ý. Các yếu tố như biến động thương mại toàn cầu, chính sách thuế của Mỹ, xung đột địa chính trị, giá năng lượng tăng cao, giá cước vận tải biển biến động mạnh, nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng… đều có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của ngành.

"Những rủi ro này đòi hỏi các doanh nghiệp khai thác cảng phải có chiến lược linh hoạt và khả năng ứng phó kịp thời để duy trì sự ổn định và phát triển bền vững trong thời gian tới", chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long khuyến nghị.

Ý kiến bình luận:

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!

Tin cùng chuyên mục

Bài 3: Áp dụng công nghệ hiện đại, mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng

Bài 3: Áp dụng công nghệ hiện đại, mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng

(Thanh tra) - Trong thời đại 4.0 như hiện nay, việc áp dụng công nghệ vào quản lý, điều hành hệ thống vận tải hành khách công cộng là tất yêu và đòi hỏi sự cấp bách. Với chủ trương mang đến những tiện ích tối đa cho khách hành, Trung tâm Quản lý và Điều hành giao thông TP Hà Nội đã liên tục hiện đại hoá, áp dụng công nghệ từ khâu tìm kiếm, lựa chọn phương tiện cho tới khâu thanh toán, sử dụng.

Cao Sơn

07:05 12/12/2024

Tin mới nhất

Xem thêm