Sáng 21/6, Quốc hội thông qua Luật Lưu trữ sửa đổi với 457/463 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025

Luật vừa được Quốc hội thông qua gồm 8 chương, với 65 điều, quy định về: quản lý tài liệu lưu trữ và cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ; nghiệp vụ lưu trữ; tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ; lưu trữ tư; hoạt động dịch vụ lưu trữ và quản lý Nhà nước về lưu trữ.

Liên quan đến tài liệu lưu trữ chứa bí mật Nhà nước tại lưu trữ hiện hành, theo quy định của luật thì việc tiêu hủy được thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật Nhà nước.

Tại Điều 17, Luật Lưu trữ sửa đổi nêu rõ, hồ sơ, tài liệu có đóng dấu chỉ độ mật được nộp vào lưu trữ hiện hành đúng thời hạn và bảo quản theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật Nhà nước.

Hồ sơ có tài liệu đóng dấu chỉ độ mật hoặc tài liệu có đóng dấu chỉ độ mật chỉ được nộp vào lưu trữ lịch sử sau khi tài liệu được giải mật theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật Nhà nước.

Đáng chú ý, điều khoản chuyển tiếp (Điều 65) quy định trong thời hạn 5 năm, cơ quan, tổ chức đã xác định bí mật Nhà nước có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với lưu trữ lịch sử thực hiện việc giải mật tài liệu đã nộp vào lưu trữ lịch sử theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật Nhà nước.

Điều luật cũng quy định việc giải mật tài liệu lưu trữ trong trường hợp cơ quan xác định bí mật Nhà nước không còn hoạt động.

Theo đó, người đứng đầu cơ quan tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ, UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý Nhà nước về lưu trữ quyết định việc giải mật tài liệu lưu trữ trong trường hợp để đáp ứng yêu cầu thực tiễn bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; phát triển kinh tế - xã hội; hội nhập, hợp tác quốc tế.

Người đứng đầu lưu trữ lịch sử thực hiện các hình thức xác định việc giải mật tài liệu lưu trữ trong trường hợp tài liệu không còn thuộc danh mục bí mật Nhà nước

“Không thực hiện việc giải mật tài liệu lưu trữ trong trường hợp việc giải mật có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc”, theo điều luật.

Về việc hủy tài liệu lưu trữ chứa bí mật Nhà nước đã nộp vào lưu trữ lịch sử trước ngày luật này có hiệu lực thi hành, điều luật quy định Bộ trưởng Bộ Nội vụ quyết định hủy tài liệu tại lưu trữ lịch sử của Nhà nước ở trung ương. Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định hủy tài liệu tại lưu trữ lịch sử của Nhà nước ở cấp tỉnh.

Tài liệu lưu trữ chứa bí mật Nhà nước được hủy trong trường hợp khi không cần thiết phải lưu giữ và việc hủy tài liệu không gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc; nếu không hủy tài liệu sẽ gây nguy hại cho lợi ích quốc gia, dân tộc.

Việc hủy tài liệu lưu trữ chứa bí mật Nhà nước phải bảo đảm các yêu cầu theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật Nhà nước.

Luật được thông qua cũng quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Luật quy định rõ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao có trách nhiệm trong việc lập danh mục hồ sơ, tài liệu lưu trữ vĩnh viễn thuộc phạm vi quản lý, trừ tài liệu chứa bí mật Nhà nước và hằng năm cập nhật, gửi Bộ Nội vụ.

 

Hương Giang