Theo dõi Báo Thanh tra trên
TS. Ngô Quốc Đông, Viện Nghiên cứu Tôn giáo
Thứ sáu, 26/11/2021 - 15:53
(Thanh tra)- Công giáo tại Nam Bộ ra đời và phát triển không do các cuộc truyền giáo của các thừa sai tại đây, mà chủ yếu là do giáo dân từ các nơi khác đến.
Nhà thờ Chánh tòa Giáo phận Phú Cường được xây dựng trên một gò đất ngay ngã 6 trung tâm, thuộc phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Ảnh: Ảnh: Nguyễn Luân/Báo Ảnh Việt Nam
Cộng đồng Công giáo Tây Nam Bộ hình thành sớm và có nguồn gốc cư dân đa dạng
Nghiên cứu về quá trình phát triển của Công giáo Nam Bộ, dựa trên số họ đạo được thành lập trong từng giai đoạn, cho thấy:
1. Giai đoạn hình thành, từ khi người Việt khai mở vùng đất mới này cho đến trước khi Gia Long lên ngôi 1802, nhịp độ phát triển chậm, một ít họ đạo được thành lập.
2. Giai đoạn dưới thời nhà Nguyễn từ 1802 - 1884, một số họ đạo tiếp tục được hình thành nhưng không nhiều.
3. Giai đoạn Pháp thuộc và tái chiếm từ 1885 - 1954, đây là thời kỳ phát triển mạnh nhất của đạo Công giáo, đa số các họ đạo được thành lập trong giai đoạn này.
4. Sang giai đoạn từ 1954 - 1975, nhịp độ phát triển của Công giáo Nam Bộ tiếp tục gia tăng, vừa gia tăng tự nhiên theo sự tự thân vận động, vừa gia tăng cơ học do cuộc di cư của đồng bào Công giáo từ Bắc vào Nam sau Hiệp định Geneve.
Xét nguồn gốc, Công giáo tại Nam Bộ ra đời và phát triển không do các cuộc truyền giáo của các thừa sai tại đây, mà chủ yếu là do giáo dân từ các nơi khác đến. Chủ yếu theo các đợt di dân chính sau đây:
- Rải rác trong giai đoạn trước khi Pháp tới Việt Nam: Theo các lớp người di dân từ các tỉnh phía Bắc Đàng Trong (các tỉnh miền Trung ngày nay), tới lập nghiệp tại Sài Gòn và vùng Nam Bộ. Người Công giáo có mặt tại Sài Gòn cùng với những cư dân đầu tiên người Việt, trước cả khi các thừa sai tới đây. Người giáo dân tự động tập hợp lại thành họ đạo, dựng nhà thờ và mời linh mục ở nơi khác tới phục vụ họ về mặt tôn giáo. Sự hình thành của họ đạo Chợ Quán là một ví dụ điển hình. Theo Louvet thì sát ngày Pháp đánh chiếm Sài Gòn, tại đây có khoảng 27.000 người Công giáo. C.E. Bouillevaux cho biết là vào năm 1867, số người Công giáo tại sáu tỉnh thuộc giáo phận Tây Đàng Trong là 35.000 giáo dân với 27 thừa sai người châu Âu.[1]
- Đợt thứ hai, vào giữa thế kỷ XIX, khi quân đội Pháp rút khỏi Đà Nẵng và tới chiếm Sài Gòn vào năm 1860: Một số người Công giáo cùng với một số người không Công giáo trong vùng Quảng Nam - Đà Nẵng, có quan hệ với Pháp khi họ đóng tại đây, đã rút theo Pháp vào Sài Gòn để tránh bị trả thù. Một phần của các người di cư này sống tập trung trong vùng phía bắc Sài Gòn, giữa thành và cầu Thị Nghè, làm thành cốt lõi của họ đạo Tân Định ngày nay.
Mặt khác, khi quân Pháp vừa tới Sài Gòn, giám mục Lefebvre cho tập trung các tín đồ lúc bấy giờ đang sống rải rác ở Sài Gòn, tại Xóm Chiếu, nằm giữa đồn phía Nam và kênh chợ Lớn, kế đó là Thủ Thiêm, ở bên kia sông, gồm các tín đồ từ nội thành chạy ra.
- Đợt thứ ba, lớn nhất, diễn ra vào các năm 1954 - 1955, sau Hiệp định Geneve kết thúc chiến tranh. Những người Công giáo tới sinh sống tại Sài Gòn vào dịp này chiếm một tỷ lệ đa số áp đảo trong số giáo dân tại đây. Theo thống kê năm 1939, Giáo phận Sài Gòn, gồm cả những phần đất chưa được tách, có 82.275 giáo dân. Nhưng theo Niên giám 1964 thì số giáo dân của Giáo phận Sài Gòn đã lên tới 703.152 giáo dân.[2]
Năm 1939, Công giáo Nam Kỳ Lục Tỉnh thuộc ba địa phận với dân số Công giáo như sau: Giáo phận Sài Gòn, 82.375 giáo dân. Giáo phận Vĩnh Long, 45.318 giáo dân, hai tỉnh An Giang và Hà Tiên, thuộc Giáo phận Nam Vang - Campuchia, 53.014 giáo dân. Tổng cộng Nam Kỳ Lục Tỉnh, năm 1939 có 180.713 giáo dân, chiếm khoảng 4% dân số chung của Nam Kỳ thuộc địa Pháp.[3]
Ngay từ đầu hình thành và phát triển cộng đồng Công giáo vùng Tây Nam Bộ đã nằm trong một cơ tầng văn hóa đa dạng
Cơ tầng văn hóa vùng Tây Nam Bộ không phải thuần nhất bởi cộng đồng người Kinh. Bên cạnh người Kinh còn có người Hoa, người Khmer và người Chăm với các tộc mang trong mình những tín ngưỡng, tôn giáo riêng.
Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, khi lãnh thổ Đại Việt tiếp tục mở rộng đến hết địa bàn Nam Bộ, thì di dân người Việt đến định cư trên đồng bằng Nam Bộ hầu hết đều có nguồn gốc từ vùng Quảng Bình đến Quảng Nam, mà đông đảo nhất là bộ phận người Việt cư ngụ ở Nam Trung Bộ. Từ đó, văn hoá Việt ở Trung và Nam Trung Bộ đã mở rộng địa bàn đến Nam Bộ, tiếp biến thêm một số đặc điểm của văn hoá Hoa, văn hoá Khmer để hình thành vùng văn hoá Nam Bộ. Do đó, trong văn hoá của người Việt Nam Bộ, có các yếu tố của văn hoá Chăm, văn hoá Hoa, văn hoá Khmer.
Từ cuối thế kỷ XIX, người Việt Nam Bộ đã giao lưu và tiếp biến văn hoá Pháp. Những năm đầu thời Pháp thuộc, người Việt nói chung và người Việt Nam Bộ nói riêng chống Âu hoá và cố gắng Việt Nam hoá ảnh hưởng của phương Tây.
Nhưng từ đầu thế kỷ XX, với phong trào Duy Tân - Đông Du, văn hoá Việt Nam nói chung và văn hoá Nam Bộ nói riêng bắt đầu hội nhập với văn hoá phương Tây. Văn hóa phương Tây, nhất là văn hóa Pháp lại có ảnh hưởng đáng kể trong nhóm cư dân Công giáo và đã hình thành một tầng lớp trí thức Công giáo chịu ảnh hưởng của phương Tây hơn là ảnh hưởng của yếu tố Nho giáo.
Do đó, từ lúc này, trong văn hoá của người Việt Nam Bộ, những ảnh hưởng của văn hoá phương Tây ngày càng đậm nét. Những ảnh hưởng của văn hoá Việt ở Trung Bộ, văn hoá Chăm, văn hoá Hoa, văn hoá Khmer, văn hoá Pháp đều để lại dấu ấn rõ ràng trong trạng thái tôn giáo của người Việt Nam Bộ hôm nay.
Về tôn giáo, người Việt tại Tây Nam Bộ ngoài theo Công giáo còn theo Phật giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tin lành và thờ cúng các loại thần linh khác như: Bà Chúa Xứ, thành hoàng...
Ở Nam Bộ, người Hoa là một tộc người thiểu số có trình độ kinh tế - xã hội phát triển và tương đối đông dân, với khoảng 750.000 người trên tổng dân số 823.071 người Hoa (1/4/2009), tập trung ở 3 tỉnh thành: Thành phố Hồ Chí Minh (414.045 người), Đồng Nai (95.162 người), Sóc Trăng (64.910 người), và rải rác ở khắp các tỉnh thành còn lại.[4]
Về tôn giáo, người Hoa theo Phật giáo hoặc theo những tín ngưỡng riêng mang đặc trưng riêng như thờ Thiên hậu, Quan công, Đạo giáo... Có một bộ phận người Việt gốc hoa theo Công giáo.
Bên cạnh người Hoa, người Khmer có dân số 1.260.640 người (theo Tổng Điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009), cư trú tập trung ở 5 tỉnh: Sóc Trăng (397.014 người, chiếm 30,7% dân số toàn tỉnh, 31,5% dân số Khmer cả nước), Trà Vinh (317.203 người, chiếm 31,6% dần số toàn tỉnh, 25,2% dân số Khmer cả nước), Kiên Giang (210.899 người), An Giang (90.271 người), Bạc Liêu (70.667 người), và rải rác ở khắp các tỉnh, thành khác của vùng Nam Bộ. [5]
Về tôn giáo, người Khmer theo Phật giáo Nam Tông, một bộ phận nhỏ người Việt gốc Khmer theo Công giáo.
Ngoài ba tộc người trên, nói tới văn hoá Nam Bộ cũng cẩn phải nhắc tới người Chăm, một cộng đồng tuy không đóng vai trò chủ thể văn hoá chính nhưng cũng góp phần làm tăng tính đa dạng văn hoá của vùng Nam Bộ. Ở Nam Bộ có khoảng 33.000 người trên tổng dân số 161.729 người Chăm (1/4/2009), cư trú tập trung ở An Giang (14.209 người), thành phố Hồ Chí Minh 7.819 người, và rải rác ở Đồng Nai, Tây Ninh, Binh Dương, Bình Phước, Kiên Giang...[6]
Người Chăm ở Tây Nam Bộ đa số theo Islam giáo.
Các thống kê lịch sử cũng cho biết đến đầu thế kỷ XX, cộng đồng Công giáo ở Tây Nam Bộ đã hình thành phát triển bên cạnh các tôn giáo lớn khác. Có thể kiểm chứng thông tin này qua các tập chuyên khảo về các tỉnh vùng Tây Nam Bộ của Hội Nghiên cứu Đông Dương. Chuyên khảo về tỉnh Vĩnh Long năm 1911 viết: “Đa số người bản xứ sinh sống trong tỉnh, người An-nam, người Hoa và người Khmer, theo Phật giáo. Có khoảng 8000 người Công giáo sống tập trung trong các xứ Vĩnh Long và Cái Nhum... Trong tỉnh cũng có khoảng 100 nhà sư phụ trách việc cũng tế, sinh hoạt trong 27 chùa”[7].
Năm 1902, Hội Nghiên cứu Đông Dương cho biết tình hình tôn giáo tại tỉnh Châu Đốc như sau:
“Công giáo - dân số Công giáo là 3.399 người; có 5 nhà thờ. Một thừa sai cư ngụ tại tỉnh lỵ, một vị khác ở Cù-lao-tây.
Phật giáo - tín đồ chủ yếu là người Khmer. Số chùa là 44. Hai chùa chánh là chùa Tri Tôn và chùa Vĩnh Hưng, các chùa khác trực thuộc hai chùa này. Các chùa cũng đồng thời là trường học. Có 494 sư sãi (năm 1899).
Các tôn giáo của người An-nam và người Trung-hoa - Cho dù cũng gắn bó với Phật giáo, nhưng các tôn giáo này khác hoàn toàn với các tôn giáo của người Khmer.
Người ta tính có tất cả 79 ngôi chùa của người An-nam, 5 của người Trung-hoa, 89 sư ông, 25 sư bà người An-nam. Các chùa chánh là chùa Tây An và Miếu Bà ở Vĩnh Tế, chùa Long Phú, chùa Phú An.
Đạo Hồi - Đây là tôn giáo mà tất cả người Mã-lai và Chăm theo. Ở Châu Đốc có 9 đền thờ. Dân số Hồi giáo vào khoảng 5.000 người.”[8]
Trở lại vài bức tranh lịch sử và hiện tại cho thấy cộng đồng Công giáo ở Tây Nam Bộ chỉ là một thị phần như bao tôn giáo khác đã định hình lâu đời ở đây, và chỉ chiếm một thị phần tương đối ôn hòa trong tổng số cư dân người Việt.
Một số đặc điểm về niềm tin, thực hành, cộng đồng Công giáo vùng Tây Nam Bộ
-Niềm tin: Cũng như niềm tin của bất cứ người Công giáo, một cách chung nhất có thể nhận thấy rằng người Công giáo Nam Bộ cũng có một niềm tin mãnh liệt vào Thiên chúa. Bởi nếu không trong quá khứ, họ đã không rời bỏ quê hương để tìm cách lánh nạn những cuộc cấm đạo của triều đình thủa trước để bảo vệ niềm tin[9], sau đó họ quy tụ lại thành những cộng đồng Công giáo sống rải rác tại Nam Bộ.
- Thực hành: Do nhiều nguồn gốc khác nhau như những phân tích ở trên, nên những người Công giáo Nam Bộ có gốc gác địa phương khác nhau, sau nhiều năm đến và định cư, họ đã có một thị phần lớn tại Nam Bộ nhất là vùng Giáo phận Sài Gòn. Sài Gòn, từ thời điểm 1945-1954, đã là một nơi tập trung các tín đồ Công giáo có nguồn gốc từ hầu hết các tỉnh miền Trung và Nam của Việt Nam. Do đó, xét về nguồn gốc, Cộng đồng Nam Bộ rất đa dạng. Sự đa dạng này đã góp phần không ít làm cho bộ mặt của Công giáo tại đây thêm phong phú trong một số khía cạnh như nghi lễ, thực hành, cách thức tổ chức họ đạo.
Liên quan đến nghi lễ, trong lịch sử truyền giáo phía Nam chịu nhiều ảnh hưởng của các dòng tu khác ngoài Hội Thừa sai Paris (MEP) nên các cách thức thực hành cũng không thuần nhất như vùng đồng bằng Bắc Bộ nơi chi phối mạnh mẽ của MEP.
-Cộng đồng: Đặc điểm nổi bật của các cộng đồng Công giáo Nam Bộ là thiên về tính mở, hướng ngoại hơn là khép kín bảo căn như ở phía Bắc. Bởi bản thân gốc gác của họ cũng không phải là một khối thuần nhất. Ngoài hiệp thông chung, họ còn liên kết với nhau theo gia đình, nhóm có tính chất vùng miền.
[1] . Con số dẫn theo Nguyễn Nghị (1998), Công giáo thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Dân tộc học và Tôn giáo, Viện khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh.
[2] . Nguyễn Nghị (1998), Công giáo thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Dân tộc học và Tôn giáo, Viện khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh, tr 5-6.
[3] Trương Bá Cần (chủ biên) (2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập II. Thời kỳ thử thách và phát triển (từ đầu thế kỷ XIX đến mùa Thu 1945), Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, tr 320.
[4] . Dẫn theo Lý Tùng Hiếu (2014): Tôn giáo của cư dân Nam Bộ: Cái nhìn tổng quan in trong Thời sự thần học, số 64, tr. 191.
[5] . Dẫn theo Lý Tùng Hiếu (2014): Tôn giáo của cư dân Nam Bộ: Cái nhìn tổng quan in trong Thời sự thần học, số 64, tr. 191.
[6] . Dẫn theo Lý Tùng Hiếu (2014): Tôn giáo của cư dân Nam Bộ: cái nhìn tổng quan in trong Thời sự thần học, số 64, tr. 191-192.
[7] . Hội Nghiên cứu Đông Dương (1911): Chuyên khảo về tỉnh Vĩnh Long, tập 14 (Nguyễn Nghị và Nguyễn Thanh Long dịch), Nhà xuất bản Trẻ, 2017, tr.49.
[8] . Hội Nghiên cứu Đông Dương (1903): Chuyên khảo về tỉnh Vĩnh Long, tập 7 (Nguyễn Nghị và Nguyễn Thanh Long dịch), Nhà xuất bản Trẻ, 2017, tr.82
[9] . Thời kỳ hạn chế tôn giáo của chính quyền phong kiến, nhiều cư dân Công giáo từ miền Trung đã chạy vào vùng Sài Gòn và khu vực phía Nam để lánh nạn. Xem thêm Ngô Quốc Đông (2012), Chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn và ảnh hường của nó tới xứ, họ đạo, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, in 2 kỳ số tháng 3 và tháng 5.
Ý kiến bình luận:
Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!
(Thanh tra) - Để cải thiện chất lượng không khí, giảm thiểu ùn tắc giao thông và hướng tới mục tiêu phát triển đô thị bền vững, HĐND TP Hà Nội vừa thông qua nghị quyết quy định thực hiện vùng phát thải thấp trong một số khu vực nội đô vào những khung giờ nhất định. Đây được xem là bước ngoặt lịch sử, định hình lại thói quen đi lại và phong cách sống của hàng triệu người dân Thủ đô.
Hải Hà
(Thanh tra) - Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình vừa ký Công điện số 236/CĐ-TTg ngày 5/12/2025 về vụ cháy tại số 227, đường Trần Hưng Đạo, phường Cầu Ông Lãnh, TP Hồ Chí Minh.
T. Minh
Văn Thanh
Văn Thanh
Yến Nhi
Nguyệt Huy
B.S
Hương Giang
Nhật Minh
B.S
Trần Quý
B.S
Hải Hà
Chính Bình
T. Minh
T.Vân
Bảo Anh