UBND huyện Sóc Sơn (TP Hà Nội) vừa ra Văn bản chỉ đạo UBND xã Minh Phú phối hợp với các đơn vị chức năng xử lý dứt điểm vi phạm xây dựng trên đất rừng phòng hộ - đặc dụng trong tháng 11/2018.

18 công trình vi phạm xây dựng trên đất rừng phòng hộ - đặc dụng nằm ở thôn Lâm Trường. Đại diện UBND huyện Sóc Sơn cho biết, trong 18 công trình này, hiện có 3 chủ đầu tư là ông Phạm Đức Thắng, Đỗ Việt Anh và bà Trần Thị Kim đồng ý tự tháo dỡ.

Với 15 công trình vi phạm còn lại, UBND huyện Sóc Sơn sẽ chỉ đạo các đơn vị chức năng tiếp tục tuyên truyền, vận động để các hộ tự khắc phục hậu quả, tháo dỡ công trình xây dựng trái phép.

UBND huyện Sóc Sơn chỉ đạo các đơn vị liên quan xây dựng kế hoạch, sẵn sàng phương án cưỡng chế công trình vi phạm trong trường hợp các hộ không chấp hành quy định.

Huyện Sóc Sơn dự kiến, sẽ xử lý dứt điểm các công trình vi phạm tại tại thôn Lâm Trường, xã Minh Phú trong tháng 11/2018.

Còn với 27 công trình vi phạm đất rừng phòng hộ - đặc dụng tại thôn Minh Tân, xã Minh Trí, bên cạnh tiếp tục tạm đình chỉ thi công các công trình, địa phương đang tích cực phối hợp với Thanh tra TP Hà Nội tiến hành rà soát lại việc chuyển nhượng, cấp giấy phép xây dựng cho các công trình này.

Đại diện UBND huyện Sóc Sơn đánh giá đây là vụ việc rất phức tạp vì có liên quan tới nguồn gốc rừng, đất rừng từ hơn 30 năm về trước.

Chỉ sau khi có kết luận thanh tra, địa phương mới có thể tiến hành xử lý trách nhiệm cán bộ có liên quan và cưỡng chế các công trình có vi phạm.

Trước đó, tại phiên họp giao ban công tác UBND TP Hà Nội tháng 10/2018 ngày 30/10, Chủ tịch UBND TP Nguyễn Đức Chung yêu cầu, các đơn vị liên quan phải xử lý nghiêm vi phạm trật tự xây dựng ở huyện Sóc Sơn. Với các công trình vi phạm mới ở rừng đặc dụng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng huyện Sóc Sơn phải ra quyết định cưỡng chế vi phạm trong tháng 12, không được để công trình vi phạm mới nào tồn tại.

“Trước tiên ra thông báo để các hộ dân tự tháo dỡ, nếu không thực hiện thì phải ra quyết định cưỡng chế, không để tồn tại các công trình vi phạm”, ông Chung nêu rõ.

Với các công trình vi phạm trước đó, ông Chung chỉ đạo các đơn vị cần thực hiện đúng theo kết luận của Thanh tra Chính phủ.

“Sau khi Thanh tra TP thực hiện xong thanh tra toàn diện sẽ xem xét cụ thể trách nhiệm và xử lý nghiêm, bất kể là ai”, ông Chung nhấn mạnh

18 hộ xây dựng, sửa chữa công trình trên đất rừng được Ban Quản lý nêu đích danh:

1. Ông Phạm Mạnh H. là chủ diện tích đất nằm tại Lô 7.1, khoảnh 12. Gia đình ông này có diện tích 1.290m2; hợp đồng mua bán, chuyển nhượng được UBND xã Minh Phú xác nhận từ năm 2003.

Ông xây khung nhà thép với diện tích 85m2. Ban Quản lý rừng lập biên bản từ tháng 6/2018 yêu cầu hộ dân tự tháo dỡ nhưng đến nay công trình vẫn tồn tại.

2. Tại Lô 7.1, khoảnh 12, bà Nguyễn Thị Th. (con trai là Lương Minh Đ.) có diện tích là 1080m2; hợp đồng mua bán, chuyển nhượng được UBND xã Minh Phú xác nhận từ năm 2003.

Ông Lương Minh Đ. (con trai bà Th.) dựng nhà khung thép với diện tích 80m2. Ngay sau khi phát hiện Trạm Bảo vệ rừng Sóc Sơn đã lập biên bản vi phạm, yêu cầu tự tháo dỡ nhưng đến nay công trình vẫn tồn tại.

3. Tại Lô 10.2a, khoảnh 12, bà Tạ Phạm Bích Th. xây dựng bể chứa nước phục vụ cho công tác phòng cháy, chữa cháy 300m2 và nhà bảo vệ 50m2. Ngay khi phát hiện, Trạm Bảo vệ rừng Sóc Sơn đã lập biên bản yêu cầu dừng thi công.

4. Tại Lô 7, khoảnh 12, bà Lê Quỳnh Tr. có diện tích là 1260m2. Hợp đồng mua bán, chuyển nhượng được UBND xã Minh Phú xác nhận từ 2003.

5. Tại Lô 2, khoảnh 12, bà Lâm Thị Minh Ph., có diện tích 2.000m2. Bà Ph. xây công trình 144m2 và ngay khi phát hiện Ban đã yêu cầu tự tháo dỡ. Gia đình bà Ph. đã có cam kết tự tháo dỡ nhưng đến nay chưa thực hiện.

6. Tại Lô 3, khoảnh 12, bà Trần Hồng Hạnh (chồng Phạm Đức Thắng), có 2018m2, trong đó, 400m2 đất ở và vườn cây. Bà H. xây dựng với diện tích 104m2 và ngay sau khi phát hiện Ban đã lập biên bản, yêu cầu tự tháo dỡ. Đến nay gia đình đã tự tháo dỡ phần vi phạm.

7. Tại Lô 7.1+7.2 khoảnh 12, bà Trần Thị Kim, có 3350m2. Bà K. xây dựng công trình với diện tích 124,52m2. Ban Quản lý đã lập biên bản, yêu cầu tự tháo dỡ và hiện nay gia đình đã thực hiện.

8. Tại Lô 2, khoảnh 12, ông Lê Xuân L. có 3251m2. Ông L. xây dựng với diện tích 130m2. Sau khi ban lập biên bản, ông L. có cam kết tự tháo dỡ nhưng chưa thực hiện.

9. Tại Lô 7.1, khoảnh 12, bà Trần Thị Mỹ H., có diện tích 1080m2. Bà H. xây dựng công trình với diện tích 104m2. Sau khi Ban lập biên bản, bà H. đã xin tự tháo dỡ nhưng chưa thực hiện.

10. Tại Lô 3 khoảnh 12, ông Đỗ Việt Anh., có diện tích 1090 m2, gồm đất thổ cư và vườn quả. Ông A. cải tạo, sửa chữa nhà với diện tích 40m2. Đến thời điểm hiện tại, gia đình ông Anh đã tự tháo dỡ phần vi phạm.

11. Tại Lô 3 + 4 + 5 khoảnh 11, ông Ngô Văn Cam (hiện là Trưởng thôn Lâm Trường) với sổ lâm bạ diện tích được giao là 15ha. Ông Cam xây dựng công trình gạch, cát, xi măng với diện tích 300m2.

Sau khi phát hiện, Ban Quản lý đã mời ông Cam lên làm việc và yêu cầu tự tháo dỡ nhưng chưa thực hiện.

12. Tại Lô 11.2a khoảnh 11, ông Hoàng V. xây dựng nhà bê tông, cốt thép có diện tích 33,25m2. Khi phát hiện vi phạm, Ban Quản lý đã lập biên bản và ông V. cam kết tự tháo dỡ nhưng chưa thực hiện.

13. Tại lô 8 khoảnh 11, bà Đào Thị Thanh Th. xây dựng công trình xi măng cát với diện tích 123,2m2. Dù cam kết tự tháo dỡ nhưng đến nay bà Th. chưa thực hiện.

14. Tại lô 8 khoảnh 11, bà Nguyễn Hồng Th. xây dựng công trình xi măng cát với diện tích 460m2. Dù cam kết tự tháo dỡ nhưng đến nay chưa thực hiện.

15. Tại lô 8+9 khoảnh 11, bà Nguyễn Thị T., xây dựng công trình xi măng, cát 71,25m2. Ban đã lập biên bản và bà T. có cam kết tự tháo dỡ nhưng chưa thực hiện.

16. Tại Lô 8 khoảnh 11, bà Vũ Thị H., xây dựng công trình xi măng cát 91m2. Ban đã lập biên bản và bà H. đã có cam kết tự tháo dỡ nhưng chưa thực hiện.

17. Tại Lô 3 khoảnh 12, bà Vũ Thị H. xây dựng công trình 60m2.Ban đã lập biên bản, gia đình có cam kết tự tháo dỡ nhưng chưa thực hiện.

18. Tại Lô 2.4 khoảnh 12, bà Nguyễn Thị T., có diện tích đất 3118m2. Bà T. xây dựng công trình có diện tích 130m2 và đến nay đã tự tháo dỡ.

H.Giang