Thanh tra công tác quản lý vốn, tài sản và đổi mới doanh nghiệp tại Tổng công ty Bảo đảm an toàn Hàng hải miền Bắc (sau đây gọi là Tổng công ty), bên cạnh những mặt tích cực, hàng loạt tồn tại, khuyết điểm cũng được làm rõ tại Kết luận thanh tra số 6166/KL-BGTVT ngày 25/6/2020 của Bộ Giao thông Vận tải (GTVT).

Nhiều quy định, quy chế áp dụng các văn bản pháp luật đã hết hiệu lực

Báo cáo tài chính năm 2017-2018 của Tổng công ty, cho thấy:

Năm 2018, vốn chủ sở hữu vượt vốn điều lệ 12,174 tỷ đồng nhưng Tổng công ty chưa nộp về Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp.

Nợ phải trả của Tổng công ty tính đến 31/12/2018 là hơn 527,1 tỷ đồng; trong đó nợ ngắn hạn là hơn 526,5 tỷ, nợ dài hạn là hơn 667,3 triệu đồng.

Nợ phải thu tính đến 31/12/2018 tại Tổng công ty là hơn 433,7 tỷ đồng; trong đó nợ ngắn hạn là hơn 433,6 tỷ đồng, nợ dài hạn là 30 triệu đồng. Còn 2% công nợ chưa được đối chiếu tương ứng với hơn 5,6 tỷ đồng do khách hàng không trả lời hoặc đã có khách hàng phá sản. Nợ phải thu quá hạn, năm 2017 là hơn 8 tỷ đồng, chiếm 3,5% trên tổng nợ phải thu; năm 2018 là hơn 8,3 tỷ đồng, chiếm 1,9% trên tổng nợ phải thu.

Khoản đầu tư tài chính dài hạn hơn 8,7 tỷ đồng, Tổng công ty đầu tư mua cổ phiếu của Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam từ năm 2012 không nhận được cổ tức, Tổng công ty đã trích lập dự phòng hơn 6 tỷ đồng; Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng công ty thoái vốn khoản đầu tư trên, đến nay, vẫn chưa thoái vốn được khoản đầu tư này.

Quản lý hàng tồn kho và chi phí sản xuất dở dang: năm 2017 hàng tồn kho là 55,977 tỷ đồng, năm 2018 là 87,517 tỷ đồng; chi phí sản xuất dở dang năm 2017 là 45,978 tỷ đồng, năm 2018 là 76,695 tỷ đồng.

Tổng công ty và các đơn vị ban hành quy chế sử dụng các loại quỹ; trong đó có một số nội dung chi thưởng, chi phúc lợi chưa ghi rõ mức chi là chưa phù hợp quy định, kết luận nêu rõ.

Trong điều lệ tổ chức, hoạt động của các Công ty Hoa tiêu Hàng hải khu vực 2, 3, 6 có lĩnh vực kinh doanh bất động sản (kinh doanh khác sạn, lưu trú ngắn ngày) chưa phù hợp với quy định về đầu tư vốn.

Tổng công ty và các công ty con chưa ban hành quy chế đảm bảo dân chủ, minh bạch.

Tại Tổng công ty, quy chế quản lý, sử dụng tài sản cố định chưa quy định rõ việc phối hợp giữa các bộ phận và trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân có liên quan đến việc theo dõi, quản lý sử dụng theo yêu cầu quản lý đối với từng loại tài sản cố định; chưa ban hành quy chế đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ đối với người được cử đại diện vốn góp của Tổng công ty tại doanh nghiệp khác.

Chưa sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các quy chế: Quy chế quản lý nợ; Tổng công ty đang áp dụng quy chế quản lý công nợ ban hành năm 2014 áp dụng các văn bản hết hiệu lực; Quy chế trả lương, thù lao, tiền thưởng đối với người quản lý; đang sử dụng quy chế thưởng đối với thành viên HĐTV, Kiểm soát viên, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng của Tổng công ty năm 2014 áp dụng các văn bản hết hiệu lực.

Lãng phí ngân sách

Tình hình quản lý nguồn kinh phí từ NSNN cấp cho thực hiện các dịch vụ công ích bảo đảm hàng hải năm 2017, 2018 cũng có nhiều tồn tại:

Công tác thực hiện kế hoạch một số nhiệm vụ còn chậm, như ở công tác nạo vét, duy tu các tuyến luồng hàng hải dẫn đến hàng năm vẫn phải điều chỉnh kế hoạch thực hiện, điều chỉnh kế hoạch vốn…

Dự án Sửa chữa, cải tạo trạm quản lý luồng Nam Triệu năm 2017: Năm 2018 được bổ sung kế hoạch nhưng không được ghi dự toán ngân sách dẫn đến phát sinh nợ khối lượng xây dựng cơ bản gần 5 tỷ đồng. Một số biên bản nghiệm thu chưa thể hiện chi tiết công việc thực hiện của nhà thầu, chưa nêu rõ chủng loại vật tư, vật liệu, khối lượng thực hiện… Tiến độ thực hiện còn chưa đúng với kế hoạch giao.

Đặc biệt, đối với công tác nạo vét các tuyến luồng hàng hải tại 8 công trình hàng hải:

Hồ sơ mời thầu không ghi rõ nội dung về chi phí khảo sát phục vụ nghiệm thu; một số thông tin trong hồ sơ dự thầu chưa được làm rõ trong quá trình chấm thầu; có công trình đã chấm thầu lựa chọn nhà thầu thi công nhưng không thể triển khai thực hiện được, phải đấu thầu lựa chọn lại nhà thầu, dẫn đến phát sinh chi phí; một số công trình trong quá trình thực hiện phải thay đổi phương án đổ thải, dẫn đến phải thương thảo lại đơn giá với các nhà thầu đã trúng thầu.

Việc lựa chọn phương án đổ vật liệu nạo vét ra biển của công trình Hòn Gai - Cái Lân chưa phù hợp, dẫn đến lãng phí chi phí lập dự án nhận chìm ở biển; thiết kế bản vẽ dự toán được duyệt và biện pháp thi công thực tế không có sự thống nhất.

Tiến độ thực hiện các công trình chưa phù hợp với Bộ GTVT phê duyệt có tác động kế hoạch vốn bảo trì hàng năm.

Công tác nghiệm thu: Một số nhân sự tham gia ký biên bản kiểm tra phương tiện thi công của nhà thầu không đúng hồ sơ dự thầu, chưa được chủ đầu tư, tư vấn giám sát xem xét, đánh giá chấp thuận; thiếu đánh giá việc ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái…

Yêu cầu chấn chỉnh, khắc phục

Tại kết luận thanh tra, Bộ GTVT yêu cầu Vụ Quản lý doanh nghiệp tham mưu cho bộ xem xét xử lý khoản vốn chủ sở hữu vượt vốn điều lệ năm 2018: 12,174 tỷ đồng Tổng công ty chưa nộp về Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp, Tổng công ty kiến nghị được giữ lại để bổ sung tăng vốn điều lệ còn thiếu hơn 29,3 tỷ đồng, sau khi được bộ tăng vốn điều lệ tháng 8/2019.

Bộ cũng yêu cầu Tổng công ty xác định rõ những tồn tại, hạn chế nêu trong kết luận thanh tra, thực hiện chấn chỉnh và có biện pháp khắc phục, bảo đảm thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật.

Rà soát, sửa đổi chức năng, nhiệm vụ; đăng ký lại giấy đăng ký doanh nghiệp công ty con và các đơn vị trực thuộc; khẩn trương sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định nội bộ chưa phù hợp, hết hiệu lực hoặc chưa ban hành.

Khẩn trương có biện pháp xử lý theo quy định đối với hàng tồn kho, vật tư chậm luân chuyển; thực hiện thoái khoản đầu tư tài chính hơn 8,7 tỷ đồng tại Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam.

Thực hiện và chỉ đạo thanh toán các khoản nợ phải trả theo đúng thời hạn cam kết. Rà soát, đánh giá các khoản nợ phải trả đã quá hạn phải trả để xử lý theo quy định.

Thực hiện đối chiếu, đôn đốc thu hồi, xử lý các khoản nợ phải thu, đặc biệt các khoản phải thu quá hạn, phải thu khó đòi. Xử lý tài chính theo quy định đối với các khoản công nợ đã hết thời gian trích lập dự phòng.

Trần Kiên