Theo quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường và than bùn tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2009 -  2020, tổng diện tích được quy hoạch khai thác cát sông là 72.391.660m2, trữ lượng 173.330.000m3, trong đó cát san lấp có diện tích 54.217.260m2, trữ lượng 104.645.566m3.

Tính đến năm 2022, trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp có 17 giấy phép khai thác cát sông còn hiệu lực hoạt động với trữ lượng được cấp phép là 32.876.048m3 (cát xây dựng 6.325.979m3, cát san lấp 26.550.069m3). Trữ lượng được phép khai thác còn lại là 26.899.416m3 (cát xây dựng là 5.599.819m3, cát san lấp 21.299.525m3).

Qua kiểm tra và theo báo cáo của UBND tỉnh Đồng Tháp, tỉnh không cấp phép khai thác khoáng sản cung cấp cho dự án đầu tư xây dựng cầu Mỹ Thuận 2 và đường dẫn 2 đầu cầu. Cát phục vụ san lấp tại dự án do đơn vị thi công tự hợp đồng với đơn vị trung gian cung cấp vận chuyển cát cho dự án.

Theo Thanh tra Chính phủ, nhìn chung, UBND tỉnh và các ngành có liên quan đã quan tâm chỉ đạo, cung cấp thông tin để đơn vị tư vấn khảo sát xây dựng, xác định nguồn vật liệu san lấp trong quá trình lập hồ sơ thiết kế, dự toán; tạo điều kiện để nhà thầu hợp đồng cung cấp vật liệu san lấp cho dự án đầu tư xây dựng cầu Mỹ Thuận 2 và đường dẫn 2 đầu cầu kịp thời, đảm bảo tiến độ dự án.

Về việc cấp phép khai thác cát, UBND tỉnh Đồng Tháp gia hạn khai thác cát đối với 12 giấy phép hết hạn sau ngày 1/7/2011 là không đúng quy định tại khoản 1 Điều 84 Luật Khoáng sản năm 2010.

Tỉnh cấp mới 7 giấy phép khai thác cát thuộc khu vực khoanh định không đấu giá nhưng chỉ xác định ưu tiên cung ứng cát cho các công trình trên địa bàn, nhất là các công trình sử dụng vốn đầu tư công theo đề nghị của cơ quan chức năng, dẫn đến đơn vị khai thác cát trên địa bàn tỉnh đã cung cấp cát ra thị trường là chưa đúng quy định tại khoản 5 Điều 12 Nghị định số 15/2012/NĐ-CP và điểm đ khoản 1 Điều 22 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP của Chính phủ.

Nguyên nhân chủ yếu của vi phạm trên là do việc áp dụng quy định pháp luật của UBND tỉnh và Sở Tài nguyên và Môi trường chưa chính xác. Trong đó có nguyên nhân khách quan do Luật Khoáng sản năm 2010 có quy định về việc các giấy phép đã cấp trước ngày 1/7/2011 được hoạt động khai thác đến hết thời hạn ghi trong giấy phép, nhưng không có hướng dẫn thi hành cụ thể, trong khi Luật Khoáng sản và các văn bản hướng dẫn thi hành có nội dung quy định về việc gia hạn giấy phép.

Việc cấp và gia hạn giấy phép khai thác cát không đúng đã dẫn đến một khối lượng cát lớn được khai thác và cung ứng ra thị trường.

Mặc dù khối lượng cát được khai thác cũng nhằm mục tiêu phục vụ cho nhu cầu bức thiết của xã hội, sau khi được cấp phép khai thác cát, các nhà đầu tư đã nộp tiền cấp quyền khai thác, thực hiện khai thác cát và kê khai nộp các loại thuế theo quy định; UBND tỉnh Đồng Tháp đã có chỉ đạo rà soát, cho phép các giấy phép đang hoạt động được khai thác đến ngày 30/6/2023, sau đó tổ chức đấu giá. Tuy nhiên, vi phạm cần được xem xét, làm rõ để có biện pháp xử lý phù hợp theo quy định.

Thanh tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp tổ chức kiểm điểm làm rõ trách nhiệm. Qua đó, xem xét, xử lý phù hợp theo quy định đối với các tập thể, cá nhân có khuyết điểm, vi phạm trong việc gia hạn giấy phép không đúng quy định, việc cấp phép khai thác cát tại các khu vực đã khoanh định thuộc khu vực không đấu giá quyền khai thác nhưng không xác định cung cấp riêng cho các công trình theo quy định.

Quá trình kiểm điểm, xử lý, nếu phát hiện dấu hiệu tội phạm thì chuyển cơ quan cảnh sát điều tra xem xét theo thẩm quyền.

Thanh tra Chính phủ kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp chỉ đạo rà soát các giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường đã cấp và gia hạn trên địa bàn tỉnh theo quy định của Luật Khoáng sản năm 2010.

Xem xét thu hồi các giấy phép còn hiệu lực hoạt động (ngoại trừ các giấy phép cấp qua đấu giá hoặc được xác định cung cấp cho các công trình theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 22 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP), hoặc điều chỉnh giấy phép (nếu đủ điều kiện) nhằm đảm bảo chỉ cung cấp cho các công trình theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 22 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP của Chính phủ.

Bài 3: Chậm trễ trong giải quyết thủ tục đất đai sau cấp phép khai thác khoáng sản

Cảnh Nhật - Thu Huyền