Ca khúc: Tự hào người làm báo Thanh tra

Theo dõi Báo Thanh tra trên

Những tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám

Thứ hai, 05/09/2011 - 21:06

(Thanh tra)- Ngay từ tháng 6/1944, khi quân đồng minh đổ bộ vào Noóc-măng-đi, Đông Bắc nước Pháp, trên tờ Việt Nam Độc lập số 192, ra ngày 15/6/1944 đã có mấy câu văn vần nơi măng-séc như sau: Mặt trận Tây Âu đã mở rồi/Ngày giờ giải phóng đã đến, ai ơi/Mau mau chuẩn bị tinh thần để cứu lấy non sông cứu giống nòi.

Cây đa Tân Trào. Ảnh: Hồng Anh

Đây là “thời cơ” cụ thể, trong thời cơ chiến lược mà Đảng ta, Bác Hồ đã tiên đoán là “chiến tranh thế giới lần thứ hai này sẽ tạo cơ hội giải phóng cho nhân dân ta”.

Mấy câu văn vần trên dự báo sắp đến “thời cơ trực tiếp” khi quân Đức, Nhật bị thua, quân đồng minh vào các nước bị phát xít chiếm đóng để tiêu diệt chúng.

Cùng với những tin tức chiến thắng của Hồng quân Liên Xô, liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng tháng 10/1944 đã toan tính “gấp rút trực tiếp chuẩn bị khởi nghĩa”. Được tin, Bác Hồ đã chỉ thị hoãn cuộc khởi nghĩa, chỉ ra rằng: “Lúc này, thời kỳ phát triển cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời kỳ khởi nghĩa của toàn dân chưa đến. Tình hình trên toàn quốc chưa chín muồi, nếu khởi nghĩa sẽ bị địch tập trung đàn áp”… Hồ Chí Minh đưa ra phương châm “kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang phù hợp với thành phố, từng bước hướng tới khởi nghĩa giành chính quyền”.

Để chủ động trước tình hình diễn biến đang và sẽ diễn ra, tháng 2/1945, Hồ Chí Minh lên đường đi Côn Minh, nơi có đại bản doanh của đại diện quân Mỹ mang theo “tặng phẩm”, về việc Việt Minh cứu thoát phi công Sao, người Mỹ. Người đã gặp Tướng Sê-nôn, đến Cơ quan Thông tin Chiến tranh Mỹ đọc báo chí, sưu tầm tư liệu, tra cứu Bách khoa Toàn thư Mỹ. Hồ Chí Minh còn tham gia “Ủy ban Hành động” của Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội nhằm đoàn kết, tận dụng mọi lực lượng có thể đoàn kết được cho cách mạng.

Hà Nội sục sôi trước tổng khởi nghĩa
Cho đến sát ngày khởi nghĩa, các hoạt động tuyên truyền động viên chính trị càng tập trung, sôi nổi, vang dội, bất chấp sự lồng lộn điên cuồng của bọn hiến binh và an bộ đội Nhật.

Vào những ngày cuối tháng 7, đầu tháng 8, Thành ủy Hà Nội chủ trương tập trung một số thanh niên xung phong và tự vệ chiến đấu để tổ chức thành những đội “tự vệ chiến đấu xung phong” chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa sắp tới.

Lúc này, các tổ chức tự vệ cũng phát triển nhanh chóng trên cơ sở các đoàn thể cứu quốc đã phát triển rộng. Nhiều nơi như Dịch Vọng, Cầu Giấy, ở các khu Lò Lợn, Lương Yên… các tổ chức tự vệ cứu quốc đã nắm lấy các tổ chức thanh niên bảo an để hoạt động, sử dụng quỹ của các tổ chức này để mua sắm vũ khí, tập hợp tổ chức tự vệ cứu quốc, tổ chức canh gác cho các cuộc hội họp và tập luyện quân sự của Việt Minh. Gần đến những ngày khởi nghĩa, riêng số tự vệ chiến đấu đã qua các lớp huấn luyện quân sự trong toàn thành lên tới con số trên 700, gồm đa số là công nhân, nông dân, nhân dân lao động và một số thanh niên học sinh…

Cho đến những ngày cuối tháng 7, đầu tháng 8, Mặt trận Việt Minh ở thành phố Hà Nội đã có tới hàng vạn quần chúng ở trong tổ chức và hàng vạn quần chúng cảm tình, sẵn sàng ủng hộ cách mạng. Bọn phát xít Nhật và chính quyền bù nhìn hoang mang bối rối, bất lực và bị cô lập trước phong trào cách mạng lớn mạnh. Một số quần chúng lầm đường lạc lối theo các đảng phái Đại Việt lúc này cũng chạy đi tìm liên lạc với Việt Minh để lập công chuộc tội…
Nguồn: Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng, Thành ủy Hà Nội

Cuối năm 1944, đầu năm 1945, Tổng bộ Việt Minh đã gửi “mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị quan chức ái quốc Việt Nam” giới thiệu tình hình quốc tế, trong nước, chỉ ra “vận hội nước nhà đang đi đến ngày đổi mới. Dưới quyền chỉ đạo của Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh) tiếng súng kháng Nhật cứu nước của những đạo quân du kích và dân quân đã nổ vang ở nhiều nơi miền thượng du và trung du Bắc kỳ”. Thư “tâm huyết” “mong các ngài hãy hiểu rõ tình thế, đem tiền tài ủng hộ cho các đoàn thể cứu quốc, che chở cho phong trào cách mạng… góp một phần vào công cuộc xây dựng nền độc lập cho đất nước. Giờ giải phóng dân tộc đã đến rồi”!

Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương, Đảng ta đã ra bản Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh công bố Chỉ thị “Tổ chức các ủy ban dân tộc giải phóng”. Bản Chỉ thị nêu rõ: “Ủy ban dân tộc giải phóng là hình thức tiền Chính phủ, trong đó nhân dân học tập để tiến lên giữ chính quyền cách mạng”, thành lập ở “nhà máy mỏ, đồn điền, trường học, trại lính, công sở, tư sở, làng, ấp”. Chỉ thị còn hướng dẫn “nhiệm vụ các ủy ban dân tộc giải phóng, cách bầu các ủy ban này, việc lãnh đạo, phân công trong các tiểu ban của ủy ban, mối liên hệ giữa ủy ban dân tộc giải phóng với ủy ban công nhân cách mạng và ủy ban nhân dân cách mạng…”.

Tháng 4/1945, để thống nhất các hành động quân sự từ sau ngày Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân ra đời, Hội nghị Quân sự Cách mạng Bắc kỳ đã khai mạc tại Hiệp Hòa (Bắc Giang). Các đại biểu đã nghe báo cáo về việc nhân dân Trung Mầu (Bắc Ninh) nổi dậy giành chính quyền; đồn Nhật tại Bần Yên Nhân (Hưng Yên) đã bị tiêu diệt; ở Ba Tơ (Quảng Ngãi) đã khởi nghĩa; một bộ phận quân Pháp đã rút sang Trung Quốc; Nhật - Pháp bắn nhau. Hội nghị đã nêu lên “những nhiệm vụ cần kíp của chúng ta là “vạch rõ và định nhiệm vụ cho 7 chiến khu ở Bắc kỳ”; “đánh thông liên lạc giữa các chiến khu Bắc, Trung, Nam kỳ”; “gây dựng các căn cứ địa kháng Nhật”; “củng cố, phát triển các bộ độ giải phóng”, thành lập Việt Nam Giải phóng Quân, quy định nhiệm vụ, biên chế, phân phối vũ khí…”. Hội nghị đề ra một nhận định: Chúng ta đang ở vào giai đoạn chiến lược “phát động du kích” để chuẩn bị phát động tổng khởi nghĩa.

Đầu tháng 5, Hồ Chí Minh đã di chuyển từ Pác Pó về Tân Trào để làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước.

Hai ngày sau khi phát xít Đức đầu hàng đồng minh, từ ngày 11 - 15/5/1945, Hội nghị Xứ ủy Bắc kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương định ra sách lược với quân đồng minh, với lực lượng của Đờ Gôn, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn có tính chất quyết định của lịch sử.

Tiếp sau chiến khu Hòa - Ninh - Thanh (Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa) được thành lập (vào tháng 5), tháng 6, khu giải phóng gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái… đã bầu ra các ủy ban nhân cách mạng.

Tình hình thế giới diễn ra rất nhanh sau khi Hồng quân Liên Xô đánh tan đội quân Quan Đông của Nhật tiến vào Nội Mông, Hoa Bắc. Ngày 6, rồi ngày 8/8, Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki. Lãnh tụ Hồ Chí Minh cho biết, “thời cơ trực tiếp giải phóng dân tộc đã đến”. Người trực tiếp viết nhiều chỉ thị, thư cho chạy hỏa tốc, tung giao thông đi các tỉnh, thành phố thúc giục các đại biểu địa phương khẩn trương nhanh chóng về ngay Tân Trào để bàn về tổng khởi nghĩa trong đó có Hội nghị Toàn quốc của Đảng, Hội nghị Thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng, Đại hội Quốc dân Tân Trào. Người nói: Nên họp ngay Thường vụ Trung ương Đảng và cũng không nên kéo dài hội nghị. Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội.

Ngày 12/8, khi nghe tin Nhật đầu hàng, Hồ Chí Minh cấp tốc hội ý với Ban Thường vụ, quyết định tổng khởi nghĩa vũ trang trong toàn quốc.

Ngày 13/8, Ủy ban Khởi nghĩa đã ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh tổng khởi nghĩa trong cả nước.

Để tạo cơ sở luật pháp sau này, ngày 15/8, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Chính phủ Mỹ yêu cầu nhà cầm quyền Hoa Kỳ thông báo tới Liên hợp quốc rằng: Chúng tôi đứng về phía Liên hợp quốc, chống lại bọn Nhật. Nay Nhật đã đầu hàng, chúng tôi yêu cầu Liên hợp quốc thực hiện lời hứa long trọng của mình là: Tất cả các dân tộc đều được hưởng dân chủ và độc lập. Nếu Liên hợp quốc nuốt lời hứa long trọng này và không thừa nhận cho Đông Dương được hoàn toàn độc lập thì chúng tôi sẽ cương quyết chiến đấu cho đến khi giành được nền độc lập hoàn toàn.

Trong những giây phút, một giờ quý giá bằng trăm năm; cơ hội đến với dân tộc ta ngàn năm có một; sớm vài ngày sẽ bị Nhật đàn áp, nguy cơ tổn thất lớn lực lượng; muộn vài ngày, quân đồng minh vào, nước chưa có chủ, có chính quyền, bọn địch, bọn cơ hội “nhảy ra” thì có nguy cơ mất nước… Đó là những ngày giờ mà “có phải đốt cháy Trường Sơn cũng phải giành lấy chính quyền”.

Trong khi đó, ở Hà Nội, Thủ đô nghìn năm văn hiến, Thủ đô anh hùng của dân tộc đang trải qua những ngày sôi động, quyết liệt, gay go nhất. Sứ mệnh, trách nhiệm trước dân tộc, trước lịch sử với Trung ương Đảng, với lãnh tụ Hồ Chí Minh như “đốt cháy” tâm can các Ủy viên Xứ ủy Bắc kỳ, Thành ủy Hà Nội, tuổi đời còn rất trẻ.

Với trí tuệ của cả dân tộc hun đúc cho, tuân theo tinh thần của Chỉ thị về tổng khởi nghĩa giành chính quyền, các đảng viên của Xứ ủy Bắc kỳ, Thành ủy Hà Nội, những người con ưu tú của dân tộc đã quyết đoán, dũng cảm lãnh đạo thành công cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 ở Hà Nội “khi mệnh lệnh khởi nghĩa của Trung ương chưa kịp đến”.

Lãnh đạo Xứ ủy, Thành ủy và nhân dân Hà Nội thật đáng tự hào với ngày lịch sử vĩ đại ấy.

Đại tá, Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan

Ý kiến bình luận:

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!

Tin cùng chuyên mục

Sơn La thông qua phương án hợp nhất Sở Lao động, Thương binh và Xã hội với Sở Nội vụ

Sơn La thông qua phương án hợp nhất Sở Lao động, Thương binh và Xã hội với Sở Nội vụ

(Thanh tra) - Ngày 14/12, bà Tráng Thị Xuân, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Sơn La chủ trì cuộc họp cùng lãnh đạo các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Nội vụ và Ban Dân tộc nhằm thống nhất phương án sắp xếp tổ chức bộ máy của một số cơ quan, đơn vị của tỉnh.

Trần Kiên

19:34 14/12/2024

Tin mới nhất

Xem thêm