Ca khúc: Tự hào người làm báo Thanh tra

Theo dõi Báo Thanh tra trên

Tam Nông - nhìn từ Đồng bằng sông Cửu Long

Thứ tư, 05/02/2014 - 07:27

(Thanh tra) - Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết TW 7, Khóa X, diện mạo nông thôn Việt Nam nói chung, khu vực Tây Nam bộ nói riêng, đã có nhiều bước tiến. Điều đó khẳng định, đường lối chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Chính phủ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đúng và cần thiết…

Theo nhận định của lãnh đạo cấp ủy, chính quyền các địa phương, Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7 BCH khóa X, về nông nghiệp, nông dân, nông thôn được sự nhất trí cao của cả hệ thống chính trị, sự đồng tình, ủng hộ của toàn xã hội, nên Nghị quyết sớm đi vào đời sống và đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. 

Không chỉ có Nghị quyết 26, Tây Nam bộ cũng như các vùng nông thôn cả nước còn nhận được nhiều chính sách hỗ trợ khác của Nhà nước như: Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định 61/2010/NĐ-CP  của Chính phủ;  một số chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ chính sách, hộ nghèo theo Quyết định 289/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định 48/2010/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến khích hỗ trợ khai thác hải sản trên các vùng biển xa... Và bản thân các địa phương trong vùng cũng có những chính sách khuyến khích, hỗ trợ và ưu đãi đầu tư trên địa bàn.

Nhờ chủ trương đúng đắn và các chính sách khuyến khích, hỗ trợ của Đảng, Chính phủ nên 5 năm qua bộ mặt nông nghiệp, nông thôn Tây Nam bộ đã có nhiều thay đổi tích cực, nhất là về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đổi mới phát triển sản xuất và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả. Thủy sản phát triển mạnh mẽ, ngày càng nâng cao về sản lượng và chất lượng;  nhiều  mô hình sản xuất có hiệu quả cũng xuất hiện như: Nuôi tôm trong nhà kính, cánh đồng mẫu lớn, mô hình liên kết giữa sản xuất lúa chất lượng cao gắn với  chế biến xuất khẩu…

Một trong những kết quả đậm nét là Nghị quyết 26 đã góp phần cải thiện đời sống người dân nông thôn. Một trong những tỉnh nghèo nhất của khu vực như Bạc Liêu, nay thu nhập bình quân đầu người cũng đạt 23 triệu đồng/năm, tăng 1,95 lần so năm 2008. Ở Cà Mau, 5 năm qua tỷ lệ hộ nghèo cũng giảm 2%/năm. Tỷ lệ hộ được sử dụng điện thường xuyên, sử dụng nước sạch, tỷ lệ hộ được xóa nhà tạm… cũng tăng khá.

Có thể khẳng định sau 5 năm thực hiện Nghị quyết TW 7, Khóa X, diện mạo nông thôn Việt Nam nói chung, Tây Nam bộ nói riêng, đã có nhiều bước tiến vượt bậc. Điều đó khẳng định, đường lối chỉ đạo sáng suốt khi xác định tam nông là mối quan tâm hàng đầu của lãnh đạo Đảng và Chính phủ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 

Từ xuất phát điểm là quốc gia đang phát triển, Việt Nam đã vượt qua nhiều nước trong khu vực nếu xét trên các tiêu chí “điện - đường - trường -trạm”, và cơ sở sinh hoạt văn hóa cộng đồng… ở khu vực nông thôn.

… nhưng chưa đồng nhịp?

Bên cạnh những kết quả đạt được, lãnh đạo các tỉnh thành cũng thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong triển khai Nghị quyết 26 là: Kết quả đạt được chưa đồng bộ, một số mặt còn chậm chuyển biến như thu nhập của nông dân, chất lượng nông sản hàng hóa, thị trường đầu vào, đầu ra của hàng hóa nông sản; chưa có nhiều mô hình kinh tế hợp tác xã kiểu mới; hệ thống thủy lợi, giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng, y tế giáo dục, văn hóa thể thao chưa hoàn chỉnh… 

Ghi nhận một số ý kiến từ các địa phương cũng thấy, sản xuất nông nghiệp thiếu bền vững, nhiều sản phẩm chủ lực chưa có thương hiệu, nguồn nguyên liệu thủy sản phục vụ cho chế biến chưa ổn định; mô hình liên kết “4 nhà” triển khai chậm, chưa thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp.

Theo các chuyên gia, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Về khách quan, thì nông nghiệp nông thôn Tây Nam bộ có điểm xuất phát thấp, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn; giá cả thị trường, các mặt hàng nông sản và hàng hóa công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn vẫn chưa có chính sách điều tiết hợp lý. Nông sản, thực phẩm chủ yếu được sản xuất theo quy mô hộ gia đình, nhỏ lẻ, phân tán, phương thức sản xuất thủ công truyền thống nên việc hội nhập vào thị trường thế giới gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, gần đây, kinh tế vùng chịu tác động của suy giảm kinh tế thế giới, tình hình thiên tai, dịch bệnh ngày càng diễn biến phức tạp. 

Nguyên nhân khác cũng được các chuyên gia chỉ ra, đó là vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà nước, xem nhẹ việc thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, nên việc thực hiện các mục tiêu còn chậm; công tác phối hợp trong triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới từng lúc, có việc chưa tốt… 

Với tư cách là thành viên Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, trong đợt kiểm tra việc sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW tại một số tỉnh, thành phố khu vực Tây Nam bộ, Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã gợi ý nhiều vấn đề để các địa phương điều chỉnh nhận thức về mô hình trong một số chỉ tiêu về “nông thôn mới”. 

Ví như, mô hình canh tác theo hộ ở nhiều địa phương không còn phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hóa thị trường có quy mô lớn, khép kín từ nuôi trồng, thu mua, chế biến đến tiêu thụ; khái niệm và chỉ tiêu lao động nông thôn qua đào tạo nghề nên tính cả các chương trình phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, tập huấn cho nông dân (không nhất thiết phải được cấp chứng chỉ); để chuyển dịch thành công cơ cấu nông nghiệp, nông thôn nên hướng nông dân mở rộng sản xuất hàng hóa và tham gia các hoạt động thương mại; khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của từng vùng và tiểu vùng hướng vào sản xuất các sản phẩm lợi thế cạnh tranh cao… Đặc biệt là làm lại công tác quy hoạch, cơ cấu lại các ngành sản xuất, gắn quy hoạch với liên kết vùng, với xúc tiến thương mại; chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn…

Dồn vốn cho phát triển

Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho biết, những năm gần đây, NHNN đã có nhiều chính sách để hỗ trợ khu vực nông nghiệp nông thôn như hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu cá tra, thủy sản, lúa gạo, tái cấp vốn cho vay phục vụ cà phê, cho vay thu mua tạm trữ lúa, gạo... Các ngân hàng cũng đã dành một lượng vốn lớn để đầu tư cho lĩnh vực này. 

Dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn từ năm 2008 trở lại đây liên tục tăng trưởng với tốc độ tăng bình quân đạt khoảng 18%. Tính đến 31/12/2012, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn của các tổ chức tín dụng Việt Nam đạt 561.533 tỷ đồng, tăng 12,52% so với 31/12/2011 (cao hơn mức tăng trưởng 8,91% của dư nợ nền kinh tế) và tăng gấp 2,3 lần so với năm 2008. 

Đến nửa đầu năm 2013, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn của các tổ chức tín dụng (chưa bao gồm Ngân hàng Chính sách xã hội) đạt khoảng 621.584 tỷ đồng, tăng 10,69% so với 31/12/2012 (cao hơn mức tăng trưởng 4,5% tín dụng chung của nền kinh tế tại cùng thời điểm). Năm 2013 cho vay lĩnh vực tăng khoảng từ 15 - 18%. 

Đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng đang triển khai quyết liệt các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Vốn ngân hàng tập trung nhiều vào cho vay thu mua lúa, gạo xuất khẩu và tiêu dùng trong nước; cho vay thu mua tạm trữ lúa, gạo; cho vay nuôi trồng và thu mua, chế biến thủy sản… Tốc độ tăng trưởng tín dụng phục vụ tam nông luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng đối với các lĩnh vực khác.

Theo lãnh đạo Trường Đại học Cần Thơ, trong chương trình liên kết vùng thực hiện theo Nghị quyết 26 -TƯ Đảng và Nghị quyết 24-CP về nông nghiệp, nông dân và nông thôn tại Vùng ĐBSCL, các Viện, Trường đại học sẽ phối hợp với các tỉnh thành trong khu vực thực hiện 5 dự án là: Sản xuất và tiêu thụ lúa gạo; Sản xuất và tiêu thụ cây ăn quả; Liên kết phát triển bền vững cá da trơn và tôm; Đào tạo nghề nông thôn; và Thực hiện Cơ chế tổ chức, chính sách. Tùy theo điều kiện, thế mạnh hay hạn chế của mỗi địa phương, các dự án này sẽ được triển khai ở 13 tỉnh, thành phố trong vùng. Tổng kinh phí đầu tư cho 5 dự án cho vùng ĐBSCL khoảng trên 860 tỷ đồng; trong đó, riêng Dự án Đào tạo nghề nông thôn kinh phí là 555 tỷ đồng, Dự án Sản xuất và tiêu thụ lúa gạo có mức đầu tư 160 tỷ đồng. Thời gian thực hiện các dự án là từ nay đến năm 2015.


Thủy Thụy – Ngọc Lan

Ý kiến bình luận:

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!

Tin cùng chuyên mục

Việt Nam cam kết thực hiện mục tiêu đạt mức Net Zero vào năm 2050

Việt Nam cam kết thực hiện mục tiêu đạt mức Net Zero vào năm 2050

(Thanh tra) - Việt Nam được Liên hiệp quốc coi là một trong những quốc gia đi đầu trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững. Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, Việt Nam cam kết thực hiện mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050.

T.Thanh

13:44 12/12/2024

Tin mới nhất

Xem thêm