Từ Thủ đô đến vùng đất lửa, chiếc máy không chỉ mang theo công năng của một công cụ sản xuất, mà còn chuyên chở cả niềm tin, lòng yêu thương và sự kỳ vọng của Người vào một miền quê còn nghèo khó, nơi những con người lam lũ nhưng không khuất phục trước bất kỳ bão giông nào của lịch sử.
Xã Vĩnh Kim (nay là xã Kim Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) là vùng đất nằm sát bờ biển phía Đông Nam huyện Vĩnh Linh. Sau Hiệp định Genève 1954, hoà bình lập lại ở miền Bắc, Vĩnh Kim từ một vùng chiến địa khô cằn và nghèo khó bắt đầu bước vào cuộc kiến thiết dưới làn gió hợp tác hóa nông nghiệp. Dẫu ruộng ít, đất xấu, người dân vẫn bền gan bền chí, từ tổ đổi công nhỏ lẻ đến hợp tác xã (HTX) cấp cao toàn xã.
Trong bối cảnh phong trào hợp tác hóa gặp không ít trở lực ở miền Bắc, HTX Vĩnh Kim đã vươn lên thành mô hình HTX cao cấp đầu tiên của tỉnh, là điểm sáng nổi bật của cả vùng giới tuyến.
Tin về phong trào HTX ở Vĩnh Kim bay về Hà Nội. Khi đồng chí Phan Toàn, Bí thư Đảng ủy xã Vĩnh Kim, có dịp ra Thủ đô để báo cáo với Bác Hồ về tình hình xây dựng HTX ở quê nhà, Bác đã dành nhiều thời gian lắng nghe. Không chỉ hỏi chuyện chung, Bác ân cần hỏi từng điều cụ thể về cuộc sống của bà con trong xã: ăn ở ra sao, mùa màng thế nào, có đủ cơm ăn áo mặc không. Với ánh nhìn sâu thẳm và giọng nói trầm ấm, Bác dặn dò: “Vĩnh Kim ruộng ít phải trồng thêm màu, hai chân đó đi cho thật vững.”
Vĩnh Kim, một vùng quê nghèo như bao làng quê lam lũ khác dọc dải đất miền Trung hẹp ngang và nhiều bão tố đã được Bác khắc ghi trong lòng bằng sự cảm thông sâu sắc và sự lưu tâm đặc biệt. Trong một cuộc họp giữa hội trường Hà Nội đông người, giữa bao nhiêu cán bộ từ khắp nơi hội tụ, Bác bất chợt hỏi: “Chú Toàn Vĩnh Linh có đây chưa?” Câu hỏi tưởng như thoảng qua, nhưng chứa đựng cả tấm lòng đau đáu của Người với mảnh đất đầu sóng ngọn gió, nơi có con sông Bến Hải - giới tuyến chia 2 miền đất nước.
Với những thành tích xuất sắc đóng góp cho xây dựng chủ nghĩa xã hội, tháng 12 năm 1959 HTX nông nghiệp, cán bộ và nhân dân xã Vĩnh Kim vô cùng vinh dự và xúc động được Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu tặng thưởng chiếc máy cày hiệu Zeto-25K của nước bạn Tiệp Khắc gửi tặng Người.
Trước đó, ngày 2/9/1959, giữa Quảng trường Ba Đình rợp cờ hoa trong lễ diễu hành mừng Quốc khánh, chiếc máy cày Zeto-25K đã xuất hiện trong đội hình rầm rộ bước qua lễ đài. Chiếc máy như một sứ giả thầm lặng nói lên khát vọng phát triển nông nghiệp và còn khẳng định tình hữu nghị son sắt giữa hai dân tộc Việt Nam – Tiệp Khắc trong hành trình dựng xây hòa bình.
Sau lế diễu hành, tháng 12 năm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định gửi tặng chiếc máy cày về cho cán bộ và nhân dân xã Vĩnh Kim. Theo đề nghị của Người, Thủ tướng Phạm Văn Đồng giao nhiệm vụ cho ông Phan Phác, Cục trưởng Cục Cơ giới hóa nông nghiệp làm trưởng đoàn, cùng với ngài Đại sứ Tiệp Khắc trực tiếp đưa chiếc máy cày vào. Từ Hà Nội, chiếc Zeto-25K được chuyển về Đồng Hới, rồi tiếp tục hành trình vượt qua những cung đường đèo dốc, băng qua cát trắng, để đến với Vĩnh Kim, vùng quê nghèo nhưng kiên trung ngay sát giới tuyến.
Buổi lễ bàn giao được tổ chức giữa vùng Cây Sui dù giản dị nhưng trang trọng và đầy hơi ấm của Người cùng niềm hân hoan của Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Kim. Nhớ như in về những ngày này về gần 70 năm trước, ông Nguyễn Đức Anh (83 tuổi, trú tại xã Kim Thạch), nguyên Bí thư Đảng ủy xã Vĩnh Kim bồi hồi kể lại: Năm đó, tôi vinh dự là 1 trong 4 học sinh được lên tặng hoa cho vợ chồng ngài Đại sứ quán Tiệp Khắc. Sau khi làm lễ, chiếc máy cày được đưa ra tấm đất rộng để mở luống cày đầu tiên.
“Lúc đó, nhân dân, trẻ em, học sinh ùa chạy theo phía sau máy Bác, ai cũng phấn khởi. Giữa tiếng máy của Bác nổ giòn vang, tiếng vỗ tay và tiếng cười trong niềm hạnh phúc, tự hào. Nhân dân Vĩnh Kim vẫn khắc ghi câu thơ: “Máy Bác Hồ đỏ hồng như lửa. Đất Vĩnh Kim lòng đỏ tựa máy cày” như tấm lòng dân Vĩnh Kim ơn sâu, nghĩa nặng về Bác”, ông Anh bùi ngùi nhớ lại hình ảnh năm xưa.
Những năm tháng ấy, chiếc máy cày Zeto-25K cũng là chiếc máy đầu tiên hiện diện trên vùng phi quân sự. Zeto-25K không chỉ cày đất mà gieo lên giấc mơ, mầm hy vọng giữa vùng giới tuyến khắc nghiệt. Và cho đến hôm nay, câu chuyện về chiếc máy cày năm ấy vẫn còn được người Vĩnh Kim nhắc lại như một khúc tráng ca nho nhỏ giữa thời bình – giản dị nhưng sâu xa, như chính tấm lòng của Bác Hồ với nhân dân.
Chiếc máy cày ấy đã không nghỉ suốt nhiều năm sau. Nó mở lối cho hàng trăm héc-ta đất hoang như Cồn Hôi, Đuôi Tôm, Cố Bộ... được cày xới, biến thành bãi sắn, nương khoai, đồi chè. Những luống cày được mở trên những mảnh đất hoang hóa, nơi vùng đất được mệnh danh là “ăn cơm bữa diếp” (4 ngày mới được bát cơm) đã có cây lúa mọc lên.
Năm 1965, khi đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, cả vùng đất Vĩnh Linh bước vào trận tuyến khốc liệt, vừa sản xuất, vừa chiến đấu với giặc trời, giặc biển. Mỗi tấc đất, mỗi con người nơi đây đều gánh vác sứ mệnh bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa – hậu phương lớn của cả nước. Và giữa trận mưa bom bão đạn ấy, chiếc máy cày Bác Hồ tặng lại một lần nữa lên đường, góp sức vận chuyển, tiếp tế cho Đảo Cồn Cỏ anh hùng và chi viện cho chiến trường phía Nam sông Bến Hải.
Thấm nhuần lời Người căn dặn: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, người dân Vĩnh Kim đã biến lời thề thiêng liêng ấy thành hành động. Tất cả dốc sức, dồn lực, chiến đấu và sản xuất trong thế đứng kiêu hùng của một làng quê nhỏ mà gan góc, kiên cường. Máu hòa với mồ hôi, hy sinh song hành cùng bền bỉ – Vĩnh Kim trở thành một pháo đài thép bên dòng Bến Hải, cùng với toàn Vĩnh Linh hiên ngang trụ vững trong mưa bom, lửa đạn.
Khẩu hiệu “Giỏi tay cày, chắc tay súng” không chỉ là lời hô vang, mà là thực tiễn rực lửa nơi đây. Trong bom đạn ác liệt, Vĩnh Kim vẫn giữ vững năng suất 5 tấn/ha, một con số làm kinh ngạc ngay cả trong thời bình. Ngày đêm, người dân nơi đây sống trọn tình nghĩa với hậu phương, tiền tuyến, vừa tiếp tế cho đảo xa, vừa nuôi quân đánh giặc gần.
Với thành tích sản xuất, chiến đấu lừng lẫy, Vĩnh Kim được phong tặng cả hai danh hiệu: Anh hùng Lao động và Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Những cánh đồng một thời trắng cát nay xanh mướt màu chè, tiêu, lạc, cao su. Những mái đầu bạc hôm nay vẫn nhắc đến “máy cày của Bác” như một báu vật linh thiêng, như một chứng tích của niềm tin và tình yêu giữa Người và dân.
Đến năm 1967, trong khi bom đạn chưa ngớt trên đầu, chiếc máy cày bị hỏng nặng, không thể tiếp tục hoạt động. Thương quý kỷ vật của Bác, dù đang giữa chiến tranh ác liệt, Vĩnh Kim vẫn quyết định gửi máy ra Hà Nội để sửa chữa. Một chiếc ô tô được trưng dụng, chở theo cả lòng thành kính và niềm tin của bà con gửi gắm. Nhưng rồi chiến tranh ngày càng khốc liệt, cả nước oằn mình trong muôn trùng gian khó tái thiết. Vì thế, chiếc máy cày mất tin tức.
Năm 1979, Đảng bộ Vĩnh Kim nhóm họp, quyết một điều gan ruột: “Dù gian khó đến đâu cũng phải đưa bằng được chiếc máy cày trở lại quê hương.” Ba người được chọn cho hành trình đầy gian nan ấy: Nguyễn Hữu Thông, Nguyễn Đức Anh, Nguyễn Đức Đồng. Họ mang theo cơm nắm, gạo rang, khăn áo mỏng, dấn bước ra Hà Nội.
Ngày nối ngày lần tìm khắp các xưởng máy. Và rồi, trong một lần trò chuyện tình cờ với một công nhân già, họ lần ra manh mối. Hóa ra, vì cảng Hải Phòng bị phong tỏa thủy lôi, phụ tùng viện trợ từ Tiệp Khắc không vào được, nên chiếc máy cày không thể sửa, bị cất sâu trong một kho xưởng – nằm lặng lẽ suốt cả một thời chiến tranh.
“Khi biết rằng chiếc máy cày là món quà của Bác tặng cho nhân dân Vĩnh Kim, những cán bộ Xưởng cơ khí nông nghiệp 1 Hà Nội đã nhanh chóng bắt tay vào sửa chữa. Những người thợ lành nghề nhất được huy động, làm việc suốt ba ca, ngày lẫn đêm. Biết đây là chiếc máy cày của Bác tặng cho nhân dân Vĩnh Kim, công nhân ở đây không hề đề cập đến chi phí, tiền công mà họ chỉ quyết tâm làm để chúng tôi có thể kịp đưa chiếc máy cày trở về Vĩnh Kim kịp đêm giao thừa năm đó”, ông Nguyễn Đức Anh kể.
Khi sửa chữa, phục chế, có những bộ phận đã mục, phải đi khắp nơi tìm phụ tùng thay thế. Lốp xe không còn – ban giám đốc đích thân ra tận tổng kho Hải Phòng để tìm cho được đúng loại lốp của Tiệp Khắc.
Hai tháng miệt mài trôi qua. Đến chiều 28 tháng Chạp Tết năm Tân Dậu (1981), tiếng nổ đầu tiên sau bao năm câm lặng vang lên giòn giã trong sân xưởng. Cả nhà máy vỡ òa. Những giọt nước mắt vui mừng lặng lẽ rơi trên gương mặt những người thợ. Lễ tiễn chiếc máy cày trở lại Vĩnh Kim diễn ra vào đêm hôm sau, có mặt cả lãnh đạo Bảo tàng Hồ Chí Minh, kéo dài đến tận gần nửa đêm.
Đêm 29 Tết, chiếc Zeto-25K năm xưa lại lên đường. Bên cạnh nó không chỉ là niềm tự hào, mà còn có thêm một rơ-moóc mới, hai thùng phuy dầu và hai cán bộ kỹ thuật từ xưởng đi cùng để đảm bảo hành trình suôn sẻ.
Và rồi, đúng đêm Giao thừa - 30 Tết, Vĩnh Kim rực sáng trong rộn ràng đón Tết lẫn niềm vui ngày hội. Lần thứ hai, bà con quây quần bên chiếc máy cày như đón một người thân từ xa trở về. Không khí ấy, sau 21 năm vẫn vẹn nguyên cảm xúc như ngày đầu được đón nhận món quà của Bác.
“Không biết nói gì hơn cũng như không biết trả bao nhiêu cho đủ công sức, tiền bạc của các cán bộ, công nhân Xưởng cơ khí nông nghiệp 1 Hà Nội, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Kim thống nhất gửi các sản vật của vùng đất này như tiêu, chè, lạc…và 5 con bò cho anh em ngoài đó đón Tết. Bà con Vĩnh Kim bịn rịn nói lời cảm ơn, ai cũng rơm rớm nước mắt khi nhìn lại món quà của Bác về lại với mảnh đất này”, ông Anh cười nhớ lại.
Những năm 1980, trên những cánh đồng vẫn còn lẫn lộn mảnh bom, chiếc Zeto-25K lại cày sâu, cuốc bẫm, tiếp tục miệt mài góp sức cùng người dân dựng xây cuộc sống mới. Nó không chỉ là máy móc mà là chứng nhân, là niềm tin, là lời nhắc nhở thầm lặng về tấm lòng của Bác Hồ và nghị lực phi thường của một vùng quê đi lên từ tro tàn chiến tranh.
Chiếc máy cày dã sát cánh cùng nhân dân Vĩnh Kim xây dựng quê hương cho đến khi không thể sử dụng nữa và được đưa về trưng bày tại Nhà truyền thống xã Vĩnh Kim. Máy cày được phục dựng, sơn mới và gắn biển chú thích rõ ràng. Từ đây, trở thành điểm đến giáo dục truyền thống cho học sinh và người dân địa phương.
Dẫu thời gian đã trôi qua hơn nửa thế kỷ, tiếng động cơ của chiếc máy cày đầu tiên Bác tặng vẫn vang vọng trong lòng mỗi người dân Vĩnh Kim. Nó không chỉ là di vật lịch sử, mà còn là ngọn đèn soi sáng hành trình phát triển hôm nay.
Trẻ em Vĩnh Kim được lớn lên trong những câu chuyện về “máy cày Bác Hồ” như một biểu tượng bất khuất của ý chí và tinh thần cách mạng. Trong từng buổi sinh hoạt Đoàn, từng tiết học lịch sử địa phương, hình ảnh chiếc máy cày đỏ tươi vẫn được nhắc đến như một bài học sống về sự kiên trì, sáng tạo và lòng biết ơn. Đó là nguồn cảm hứng để thế hệ trẻ không ngừng vươn lên, dấn thân phục vụ quê hương.
Ngày nay, Vĩnh Kim không chỉ giữ gìn truyền thống anh hùng mà còn hướng đến tương lai với khát vọng xây dựng nông thôn mới hiện đại, xanh, sạch, đẹp. Chiếc máy cày Bác Hồ là biểu tượng được gìn giữ trang trọng trong Nhà truyền thống xã và thường xuyên đón tiếp khách tham quan, học sinh, thanh niên và những thế hệ kế tiếp đến tìm hiểu, học hỏi.
Chủ tịch UBND xã Kim Thạch Dương Thế Hà tự hào: “Những mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, HTX kiểu mới, được nhân rộng không ngừng. Dưới ngọn cờ cách mạng đã được hun đúc bởi tinh thần “máy cày Bác tặng”, Vĩnh Kim đang trở thành điểm sáng về phát triển bền vững, gắn liền giữa truyền thống với hiện đại”.
Mỗi thế hệ trẻ Vĩnh Kim hôm nay, khi đứng trước chiếc máy cày trong nhà truyền thống, đều cảm nhận được hơi ấm của Bác, nghe được nhịp tim của lịch sử. Vĩnh Kim hôm nay vẫn đang tiến bước – một hành trình nối dài từ chiếc máy cày đỏ ngày xưa, từ tấm lòng Bác Hồ đến khát vọng của bao thế hệ. Và ngọn lửa ấy sẽ không bao giờ tắt, mà sẽ cháy mãi trong tim những người con của vùng đất đầu sóng, nơi chiếc máy cày của Bác mãi là biểu tượng của sức sống, của niềm tin và của tình yêu đất nước.