Giữa Ka Tiêng, xã Hướng Việt (nay là xã Hướng Lập, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam) và A Via (cụm bản La Cồ, huyện Sê Pôn, tỉnh Sa Văn Na Khệt, Lào), 14 km đường biên không chia đôi hai bản mà kết nối họ bằng những sợi dây nghĩa tình. Từ lễ kết nghĩa năm 2007 đến những phiên họp bên mốc 584–586, mô hình kết nghĩa bản – bản đã trở thành điểm tựa để hai cộng đồng giữ yên biên giới, phát triển sinh kế và nuôi dưỡng tình đoàn kết bền như đá núi.
Ông Nguyễn Minh Long, Bí thư Đảng ủy xã Hướng Lập, chia sẻ: “Trong nhiều năm qua, bà con bản Ka Tiêng phối hợp rất chặt chẽ với bản A Via và các lực lượng hai bên. Nhờ vậy mà việc trao đổi tình hình, giữ an ninh biên giới và giúp nhau phát triển kinh tế được duy trì đều đặn, thực chất. Đây không chỉ là phong trào, mà là nền tảng đoàn kết rất bền.”
Nền tảng ấy không tự nhiên có. Nó xuất phát từ một tư tưởng đã được gieo từ hàng chục năm trước, tư tưởng của Thiếu tướng Trần Đình Dũng, người khởi xướng mô hình kết nghĩa bản – bản trên toàn tuyến Việt – Lào. Ông từng nói: Biên giới là biên giới chung của các quốc gia láng giềng… việc bảo vệ biên giới cũng phải là nhiệm vụ chung.
Từ triết lý ấy, mô hình kết nghĩa không chỉ là một lễ ký, mà là việc đặt người dân vào vị trí trung tâm của an ninh biên giới, là đại đoàn kết các dân tộc, điều mà các đồn biên phòng và chính quyền địa phương vẫn kiên trì duy trì đến hôm nay.
Ngày 31/3/2007, bên bờ suối trên bản Ka Tiêng, lễ kết nghĩa diễn ra giản dị mà ấm cúng. Già làng hai bản ngồi gần nhau, trước mặt là 12 nội dung cam kết, rõ ràng và cụ thể: không di cư tự do, không vượt biên trái phép, không lấy vợ lấy chồng trái luật; giữ gìn mốc giới; hỗ trợ nhau sản xuất; cùng bảo vệ an ninh. 100% hộ dân tham gia, buộc lên cổ tay mình sợi chỉ xanh đỏ kết nghĩa, chúc nhau sức khỏe, may mắn và cùng đoàn kết như một lời thề trước núi.
Từ ngày ấy, những câu chuyện của hai bản không còn tách rời. Mỗi quý, họ gặp nhau, khi ở Ka Tiêng, khi ở A Via. Khi có vụ việc giữa liên quan giữa 2 cụm dân cư biên giới, chỉ cần hai trưởng bản ngồi lại, đặt ché nước đầu bản, nói chuyện với nhau – mọi khúc mắc đều được gỡ ra như cách người miền núi gỡ một nút dây rừng: chậm rãi nhưng chắc chắn
Những điều tưởng như nhỏ ấy chính là “đối ngoại Nhân dân” chân thật nhất, đúng như lời Thiếu tướng Dũng từng nói: “Thông qua kết nghĩa, Nhân dân hai bên tự giải quyết những vấn đề từ thực tiễn cuộc sống”.
Từ ngày kết nghĩa, mười tám năm qua, các hoạt động giao lưu văn hóa – thể thao trở thành nhịp sống quen thuộc của Ka Tiêng – A Via. Bóng đá, bóng chuyền, đêm văn nghệ; Tết Nguyên đán hay Bunpymay, bà con sang nhau dựng nêu, buộc chỉ cổ tay, mang theo những món quà quê giản dị – nải chuối rừng bên A Via, gùi sắn khô bên Ka Tiêng. Đám cưới, đám ma không còn ranh giới; người đau ốm được cõng sang trạm xá bên kia nếu bên này xa hơn.
Cùng với sự đi lại ấy, hai bản đã phối hợp tổ chức hàng trăm đợt tuyên truyền cho hơn 5.200 lượt người về chủ quyền lãnh thổ, Hiệp định Quy chế biên giới Việt – Lào, vị trí từng cột mốc. Dưới tán cây rừng hoặc trong nhà văn hóa bản, cán bộ hai bên giải thích từng điều: từ hôn nhân biên giới, từ di cư trái pháp luật đến việc giữ rừng giữ suối. Hơn 800 lượt người tham gia các lớp khuyến nông – thú y.
Năm 2019, khi hai tỉnh Quảng Trị – Savannakhet rà soát người di cư tự do và hôn nhân không giá thú, riêng Hướng Việt có 15 trường hợp người Lào được nhập quốc tịch Việt Nam và 12 cặp vợ chồng được tạo điều kiện hợp thức hóa.
Bên A Via, Cụm bản La Cồ còn nhiều khó khăn, thế nên nhiều năm qua phía chính quyền xã, Bộ đội biên phòng (BĐBP), dân bản Ka Tiêng không chỉ giúp A Via về tinh thần mà còn cả về vật chất, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc, đồ dùng sinh hoạt... Hàng tỷ đồng đã được các cán bộ Đồn Biên phòng kêu gọi từ các tổ chức, cá nhân để hỗ trợ các cơ sở vật chất, nhà cửa, mô hình kinh tế, khám, chữa bệnh cho nhân dân bên bạn.
Không chỉ trong sinh kế, tình cảm keo sơn Việt – Lào trên địa bàn Hướng Lập còn được khắc sâu bằng những hoạt động với nhiều chương trình lớn, như: Ôn lại truyền thống đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào; trao hàng nghìn chăn ấm, áo phao, dép, gạo, nước mắm… cho Đại đội Biên phòng 321, Trường Tiểu học và THCS Dân tộc nội trú Cụm La Cồ (Lào). Đơn vị còn kêu gọi tặng ti vi, máy tính, sân chơi trẻ em, sân thể thao cho Cụm bản La Cồ và Đại đội Biên phòng 321; tổ chức giao lưu học sinh hai bên biên giới lần 2; chương trình Trung thu cho hàng nghìn lượt thiếu nhi Lào.
Ông Bun-lom Xu-pha-mi-xay, Phó Bí Thường trực Huyện ủy Sê Pôn xúc động chia sẻ: Những năm qua, lực lượng BĐBP, chính quyền và Nhân dân các xã biên giới tỉnh Quảng Trị luôn sát cánh, đồng hành và sẻ chia sâu sắc với Nhân dân nước bạn Lào. Những lúc khó khăn, các bạn Việt Nam kịp thời động viên cả vật chất lẫn tinh thần. Đây là nguồn động viên quý báu để chính quyền, Nhân dân huyện Sê Pôn vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống.”
Ông khẳng định, mô hình kết nghĩa bản – bản nếu được nhân rộng toàn tuyến biên giới sẽ góp phần bảo vệ chủ quyền và thắt chặt tình đoàn kết đặc biệt Việt – Lào.
Trong 18 năm, hai bản cùng lực lượng biên phòng đã tổ chức hàng chục đợt tuần tra chung, với hơn 1.200 lượt người dân tham gia. Họ phát quang đường biên, sửa mốc, phát hiện kịp thời các dấu hiệu xâm phạm rừng, phối hợp bắt giữ nhiều đối tượng buôn lậu, vận chuyển ma túy.
Tất nhiên, hành trình 18 năm ấy không chỉ có thuận lợi. Kinh tế hai bản còn khó khăn; mùa mưa lũ thường xuyên cô lập đường sá; dịch bệnh Covid-19 từng làm gián đoạn mọi hoạt động giao ban; sinh kế của dân đôi khi chưa ổn định lâu dài. Nhưng bất kể khó khăn, sợi dây tình nghĩa ấy không hề đứt.
Nhìn về những năm tới, Ka Tiêng và A Via tiếp tục thống nhất đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật, tăng cường đối ngoại Nhân dân, tăng cường mối đoàn kết Nhân dân hai nước Việt – Lào, mở rộng mô hình hộ tự quản đường biên – mốc giới, hỗ trợ kỹ thuật sản xuất, giữ gìn văn hóa.
Hai bản cũng đề nghị Nhà nước đầu tư mạnh hơn về hạ tầng, giống cây – con, trang thiết bị, mở thêm lớp kỹ thuật nông – lâm nghiệp. Bởi chỉ khi dân no ấm, biên giới mới bền lâu; chỉ khi tiếng cồng, tiếng chiêng còn ngân, rừng còn xanh, thì biên cương mới bền vững.
Chiều muộn, từ Ka Tiêng nhìn sang dãy núi xanh nơi A Via trú mình, bầu trời sau mưa trong đến mức nhìn rõ từng mái nhà bên kia. Trẻ con vẫn gọi nhau bằng hai thứ tiếng nhưng chung một tiếng cười. Người lớn vẫn buộc chỉ cổ tay cho nhau. Những con đường xuyên rừng vẫn in dấu chân của những đoàn tuần tra chung.
Và trên hết, bằng di sản của người đã khởi mở con đường ấy – Thiếu tướng Trần Đình Dũng chia sẻ rằng: Lòng dân là dây thép vững bền nhất. Câu chuyện Ka Tiêng – A Via mới chỉ là một phần của bức tranh rộng lớn. Ở Ka Tăng – Đen Sa Vẳn, mô hình kết nghĩa bản – bản đã bước sang một hành trình hai thập niên, trở thành một biểu tượng đặc biệt của tình đoàn kết Việt – Lào.