Trên dải Trường Sơn gió lộng, nơi những cột mốc đánh dấu chủ quyền Tổ quốc hiện hữu một sức mạnh bền vững hơn mọi đường ranh địa lý: Sức mạnh đại đoàn kết, sức mạnh của lòng dân. Cũng từ vùng đất ấy, ý tưởng của Thiếu tướng Trần Đình Dũng – người được xem là “cha đẻ” của mô hình kết nghĩa bản – bản đã nối tay đồng bào Vân Kiều, Pa Cô, Bru với bà con Lào bên kia biên giới, dựng nên một thế trận lòng dân vững chãi nơi dãy Trường Sơn.

Tôi gặp Thiếu tướng Trần Đình Dũng vào một buổi sáng mưa phùn, tại căn nhà nhỏ nằm yên bình tại thành phố Đông Hà (cũ), tỉnh Quảng Trị. Nhìn ngôi nhà, ít ai nghĩ chủ nhân từng là Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (BĐBP) Việt Nam, ngoài sự ngăn nắp, giản dị và kỷ luật toát lên từ từng góc nhỏ.

Ông mở cửa với dáng người nhanh nhẹn, mái tóc bạc trắng, đôi mắt vẫn sáng và giọng nói còn nguyên sự sang sảng của một vị tướng đã trải nửa thế kỷ đi giữa rừng sâu, suối lớn, biên cương đầy biến động. Khi câu chuyện bắt đầu chạm đến biên giới, đến dân, đến những mảnh đất ông từng đặt chân, giọng ông bỗng trở nên đầy sinh khí, rắn rỏi mà mộc mạc, như nhịp thở của rừng già.

Chân dung thời trẻ của Thiếu tướng Trần Đình Dũng. Ảnh: Minh Tân

Ông nói chậm rãi mà chắc: Công tác biên phòng, nói cho cùng, nằm trong hai chữ lòng dân. Mất lòng dân thì mất kiểm soát biên cương. Câu nói ấy, giản dị như hơi thở, nhưng chứa đựng toàn bộ triết lý binh nghiệp của Thiếu tướng Trần Đình Dũng người được xem như “cha đẻ” của mô hình kết nghĩa bản – bản, sau này được đổi tên là “Kết nghĩa cụm dân cư hai bên biên giới”.

Sinh ra từ vùng chiến khu Ba Lòng (tỉnh Quảng Trị), nơi máu và phù sa hoà vào nhau, Trần Đình Dũng sớm chứng kiến quê hương cháy đỏ trong những trận càn. 15 tuổi gia nhập quân giải phóng, 18 tuổi vào Đảng, 19 tuổi làm cấp ủy viên Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam, năm 1972 đã chỉ huy trung đội, đến 1975 trở thành cán bộ đại đội. Tuổi trẻ của ông không có những năm tháng lãng mạn mà nó được nung trong tiếng súng và kỷ luật chiến trường.

Thống nhất đất nước, ông lại được đưa vào Tây Nguyên – vùng cao nguyên khốc liệt đầy nắng gió. Một thời gian dài phụ trách khu tị nạn người Campuchia rồi tham gia giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang vùng Đông Bắc Campuchia.

Những năm tháng ở Campuchia và Tây Nguyên, ông sống dài ngày cùng người Jrai, Ê Đê, Mơ Nông, Khmer và cả nhân dân bên nước bạn… để hiểu cách họ nhìn đất, nhìn rừng, nhìn gia đình và nhìn quốc gia. Ông từng ở Buôn Đôn với Ama Kông – người thuần dưỡng voi nổi tiếng hàng tháng trời và thuộc lòng cách thuần phục một con voi rừng…và văn hóa các tộc người Tây Nguyên và Campuchia.

Thời điểm cuối năm 1980, ông là Phó Chủ nhiệm Chính trị, Phó Đoàn công tác chống vượt biển, đối diện cảnh dân làng bán nhà bán cửa để lao ra biển trong những chiếc thuyền ọp ẹp.

Ông kể rằng có đêm 5–7 thuyền vượt biển liên tiếp. Người dân biết có thể chết nhưng vẫn đi. “Muốn dân ở lại, phải để họ sống được,” ông nói. Một người dân đói nghèo, mất phương kế sinh nhai, sẽ không còn nghĩ đến quốc gia – dân tộc. Từ suy nghĩ ấy, ông cùng địa phương giúp dân làm ăn, phục hồi sản xuất, giáo dục phòng chống xúi giục; dần dần, những dòng người vượt biển thưa hẳn rồi chấm dứt.

Năm 1991, khi đang học ở Liên Xô cũ, ông được bầu làm Tỉnh ủy viên Quảng Trị khi đang làm Chỉ huy phó BĐBP Quảng Trị. Trở về Việt Nam, 40 tuổi ông trở thành Chỉ huy trưởng BĐBP tỉnh – người trẻ nhất lực lượng lúc ấy.

Thời điểm đó, miền Tây Quảng Trị vẫn hoang sơ, đất trắng nghèo kiệt, dân cư thưa thớt, người Pa Cô – Vân Kiều vẫn du canh, du cư, còn bọn phản động lưu vong tìm cách xâm nhập.

Thiếu tướng Trần Đình Dũng cùng đồng đội chụp ảnh lưu niệm thời điểm ông đang học tại Liên Xô cũ. Ảnh: NVCC

Ông nói với cán bộ: Trong chiến lược bảo vệ biên giới, nếu lòng dân không yên, người dân không đủ no đủ ấm thì quốc gia không thể vững bền. Từ đó, bộ đội xuống bản: Đỡ đẻ, tiêm chủng, trị bệnh, hướng dẫn trồng chuối, bời lời, khai hoang; vận động bỏ du canh; lập lại bản làng; ghép sinh hoạt chi bộ với đồn biên phòng nơi không đủ đảng viên. Những xã nghèo nhất được ông đề xuất kết nghĩa với xã đồng bằng để tiếp sức.

Ông nói: Lực lượng ít, dân thì khó khăn. Muốn giữ biên giới, không có cách nào ngoài lấy dân làm gốc… Sự nghiệp của ông phủ lên nhiều miền từ chiến trường Quảng Trị rực đỏ, những bản làng Tây Nguyên khắc khổ, đến những khu tị nạn ở Đông Bắc Campuchia – đã cho ông một sự thấu hiểu mà trường lớp nào cũng không dạy được.

Ông chia sẻ rằng biên giới không chỉ nằm trên bản đồ, cũng không phải thứ có thể ràng buộc bằng cột mốc hay hàng rào thép gai. Biên giới nằm trong đời sống của từng cộng đồng dân tộc, trong phong tục, ngôn ngữ, cách cư xử, tập quán canh tác của họ; nằm trong những mối quan hệ xuyên suốt nhiều thế hệ mà đường biên quốc gia không thể chia cắt.

“Muốn ổn định biên giới thì phải hiểu dân trước,” ông nói, “phải sống với họ, biết họ nghĩ gì, lo gì, trân trọng điều gì. Chính từ những tháng ngày lặng lẽ đi giữa bản làng, chia từng bữa cơm, nghe từng câu chuyện của người Vân Kiều, Pa Cô và bà con bên kia dãy Trường Sơn, một ý tưởng dần thành hình trong ông: cần có một mô hình gắn kết cộng đồng hai bên biên giới, nơi tình thân lấp đi khoảng cách, nơi sự đoàn kết trở thành nhịp cầu để bồi đắp tình hữu nghị Việt – Lào.

Thiếu tướng Trần Đình Dũng tặng cây giống cho bà con Nhân dân bản Đen Sa Vẳn (Lào). Ảnh: NVCC

Hai năm ròng (1994–1995), ông đi từ thôn đến huyện, từ tỉnh đến phía bạn Lào, thảo luận quy chế, dựa trên Hiệp định biên giới, phong tục hai dân tộc.

Kết quả là cặp Ka Tăng – Đen Sa Vẳn ra đời, cặp bản kết nghĩa đầu tiên vào năm 2005. Từ đó lan ra 27 cặp bản trên biên giới Quảng Trị, hình thành mô hình có sức lan tỏa đến mức sau này được nhân rộng ra toàn tuyến Việt Nam – Lào, Việt Nam – Campuchia, Việt Nam – Trung Quốc.

Thiếu tướng Trần Đình Dũng tặng quà cho bà con 2 bên biên giới. Ảnh: NVCC

Ông cười: “Sau kết nghĩa, mâu thuẫn nào gay gắt mấy rồi cũng được giải tỏa êm xuôi bằng những cuộc gặp mặt, bữa cơm, chén rượu giữa hai bản”. Và chính người dân của 2 bên biên giới trở thành “lực lượng mềm” quý giá bảo vệ biên giới từ sớm, từ xa.

Năm 2007, Thiếu tướng Trần Đình Dũng được điều động ra Hà Nội giữ cương vị Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng BĐBP Việt Nam. Ông mang theo mình cả một “kho thực tiễn” của Quảng Trị, Tây Nguyên, Campuchia, Lào – những nơi ông hiểu rằng biên giới chỉ đứng vững khi dân đứng vững.

Thiếu tướng Trần Đình Dũng cùng đồng đội trong một lần về thăm lại Chiến khu Ba Lòng, nơi ông sinh ra và lớn lên. Ảnh: Minh Tân

Ở Bộ Tư lệnh, ông bắt tay vào một việc âm thầm nhưng mang tầm vóc chiến lược: Đưa mô hình kết nghĩa bản – bản từ một sáng kiến của vùng biên trở thành chính sách quốc gia với tên gọi: Kết nghĩa cụm dân cư hai bên biên giới. Từ các cuộc hội đàm với Lào, Trung Quốc, Campuchia đến các đề xuất về tuần tra song phương, kết nghĩa Đồn – Trạm, tăng cường cán bộ về xã… dấu ấn của ông hiện diện xuyên suốt tuyến biên giới. Nhờ những kiến tạo ấy, mô hình Quảng Trị được nhân rộng sang Lào Cai, Đồng Tháp, trở thành nền tảng để xây dựng vùng biên hòa bình.

Giữa vùng biên đầy gió, nhìn sợi chỉ trắng buộc tay trong lễ kết nghĩa Ka Tăng – Đen Sa Vẳn, người ta hiểu rằng mô hình kết nghĩa bản – bản chính là di sản lớn nhất của vị tướng này – một di sản được xây bằng sự từng trải của một vị tướng, bằng lòng tin vào con người, và bằng niềm tin bất biến rằng: Nhân dân chính là phên giậu vững bền nhất của Tổ quốc. Và từ hạt giống tư tưởng ấy, những cặp bản đầu tiên đã ra đời trên dãy Trường Sơn.

Từ mô hình kết nghĩa bản – bản, các hoạt động giao lưu Thanh – Thiếu niên Việt – Lào lan tỏa tinh thần đoàn kết, bồi đắp tình hữu nghị đặc biệt và chung tay xây dựng biên giới hòa bình, phát triển.

Xuất bản 25/11/2025 - 06:00 Tác giả: Minh Tân - Vũ Linh

Tin cùng chuyên mục

Bài 3: 20 năm từ Ka Tăng đến Đen Sa Vẳn

Bài 3: 20 năm từ Ka Tăng đến Đen Sa Vẳn

(Thanh tra) - Hai mươi năm trước, một sợi chỉ buộc tay giữa Ka Tăng và Đen Sa Vẳn đã mở ra mô hình kết nghĩa bản – bản đầu tiên trên tuyến biên giới Việt – Lào và của cả nước. Từ một nghi thức mộc mạc dưới chân núi, hai bản đã nuôi dưỡng thành một mạch kết nối bền chặt: Cùng tuần tra, cùng gìn giữ rừng, cùng chia sớt mùa màng, cùng vượt qua thiên tai – dịch bệnh, và cùng chứng minh rằng biên giới chỉ thật sự vững bền khi được dựng bằng lòng dân.

Minh Tân - Vũ Linh

11:00 25/11/2025

Tin mới nhất

Xem thêm