Theo dõi Báo Thanh tra trên
Thứ ba, 17/06/2014 - 07:40
(Thanh tra)- “Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển/Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa/Ngàn năm trước con theo cha xuống biển/Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa…”. Những lời thơ của nhà báo, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến cứ day dứt và vọng mãi trong tôi trong hải trình đến với Trường Sa trong chuyến đi do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức nhân các hoạt động triển lãm tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử”.
Lịch sử còn đây
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi/Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa..” mẹ thường hay kể… Nơi ấy, từ mấy trăm năm trước, các triều đại phong kiến Việt Nam đã nhiều lần khẳng định chủ quyền lãnh thổ. Đó là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thời Minh Mạng, sách Đại Nam Thực Lục Chính Biên, đệ nhị kỷ, quyển 104 chép: "Năm 1833, Vua (Minh Mạng) bảo Bộ Công rằng dải Hoàng Sa nằm trong hải phận Quảng Ngãi". Hoặc năm 1836, Đại Nam Thực Lục Chính Biên, đệ nhị kỷ, quyển 165 chép: "Bộ Công tâu: Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực mặt biển của nước ta, rất là hiểm yếu". Năm 1847, tờ phúc tấu của Bộ Công trong tập châu bản tập 51, trang 235 ghi rõ: "Bộ Công tâu lên Vua (Thiệu Trị): "Hàng năm, vào mùa Xuân, theo lệ phái binh thuyền vãng thám Hoàng Sa, thuộc hải cương nước nhà". Sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, quyển 10 chép: "Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát... chiều dài kéo dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Hoàng Sa châu".
Từ đầu Triều Nguyễn, những Đội Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa đã được thành lập hàng năm đều ra bảo vệ và khai thác tài nguyên ở hai quần đảo "thuộc hải cương nước nhà" ấy.
Thời Vua Minh Mạng, triều đình nhà Nguyễn đã cho dựng miếu bằng đá để thờ cúng, đào giếng lấy nước ngọt... và đã cho trồng cây tại các đảo để cho thuyền bè ở đằng xa nhận thấy, tránh bị nạn.
Nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận các thực vật ở Hoàng Sa, Trường Sa phần lớn có nguồn gốc ở miền Trung Việt Nam. Riêng tại đảo Phú Lâm, tài liệu Trung Quốc ghi rõ có miếu Hoàng Sa Tự của Việt Nam...
Bắt đầu từ năm 1816, việc xem xét và đo đạc thuỷ trình... để vẽ bản đồ ở Hoàng Sa do Bộ Công chỉ đạo thuỷ quân phối hợp với giám thành, với địa phương Quảng Ngãi.
Đến năm Minh Mạng thứ 14 (1833), Vua Minh Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công đẩy mạnh việc dựng bia chủ quyền, cắm cột mốc ở Hoàng Sa.
Cho đến năm 1939, các đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa vẫn do Pháp, thay mặt nước Việt Nam, thực hiện chủ quyền.
Trên thực tế, việc thực thi kiểm soát sự khai thác các sản vật ở Biển Đông của Đội Hoàng Sa, một tổ chức dân binh được thành lập quản lý và hoạt động liên tục gần hai thế kỷ suốt từ đầu thế kỷ 17 cho đến năm 1816 cùng những hành động xác lập và thực thi chủ quyền rất cụ thể như xây cột mốc, dựng bia, xây miếu, trồng cây, đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ, khai thác tài nguyên của Việt Nam từ năm 1816 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của vua và triều đình cũng như những lời tuyên bố của triều đình nhà Nguyễn và sự quản hạt hành chính vào Quảng Ngãi từ đầu thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, tất cả là những bằng chứng hiển nhiên về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng đã nhiều lần khẳng định: Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi hoạt động của Việt Nam tiến hành trên các quần đảo và vùng biển của Việt Nam, kể cả việc phân lô, thăm dò và khai thác dầu khí là hoàn toàn bình thường, phù hợp với luật pháp Việt Nam, luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông.
Hành trình trên đảo
Đoàn chúng tôi gồm 181 thành viên xuất phát từ Cảng Cam Ranh trên con tàu HQ561. Tuy mỗi người công tác một lĩnh vực khác nhau nhưng đến với Trường Sa lần này tất cả đều có khát vọng về lòng tự tôn dân tộc, yêu biển khơi và luôn hướng về chủ quyền thiêng liêng của dân tộc.
"Nhổ neo ra khơi…", anh bạn làm ngành Tuyên giao cất tiếng hát khe khẽ. Bỗng dưng tôi cũng hát theo "Em đừng hỏi rằng vì sao anh ra đi/Em ơi cũng đừng nên hỏi anh rằng, ngoài khơi xa kia có những gì vẫy gọi anh...".
Từ Cảng Cam Ranh đến Đá Lớn, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Cô Lin, Trường Sa Đông, Đá Tây, Trường Sa Lớn, Nhà giàn Phúc Tần, Vũng Tàu Cát Lái với hành trình hơn 1.000 hải lý, mỗi nơi đến đều để lại một dấu ấn khó quên đối với các thành viên trong đoàn.
Điểm đến đầu tiên - đảo chìm Đá Lớn - đã để lại cho mọi người nhiều cảm xúc khó quên, bởi nơi đây dẫu có nhiều khó khăn về vật chất nhưng những người lính đảo đều tự hào và quyết tâm bám biển.
Tôi gặp trên đảo Đá Lớn B một chàng trai thư sinh, người con của TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, vừa ra đảo tròn 5 tháng nhưng rất vững tin và yêu đời. Còn Nguyễn Văn Hòa, một chiến sĩ mới tăng cường về đảo tâm sự với tôi: “Dù máy bay Trung Quốc, tàu nước ngoài xuất hiện và tăng cường trong vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của nước ta, nhưng bọn em vẫn luôn quyết tâm hoàn tốt nhiệm vụ”. Đảo trưởng Phan Văn Huỳnh cũng thể hiện chung quyết tâm ấy. Anh bảo, “mình luôn vững tin và kiên định một lòng thủy chung với biển thì chẳng sợ gian nguy, kể cả phải hy sinh vì Tổ quốc”.
Cuộc sống của người lính trên các đảo: Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa Đông, Trường Sa Lớn tuy có nhiều khó khăn, vất vả nhưng vẫn chưa sánh bằng sự thiếu thốn của các chiến sỹ Nhà giàn và đảo chìm: Cô Lin, Đá Tây, Đá Lát… Song, họ đều chung ý tưởng quyết tâm bảo vệ vùng biển, vùng trời của Tổ quốc và vượt khó vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Tại Nhà giàn DK1/17, chúng tôi gặp anh Nguyễn Minh Thân - người con quê lúa Thái Bình - có 15 năm bám biển và từng làm nhiệm vụ qua nhiều nhà giàn. Với anh, biển đảo là cuộc sống, là một thứ gì đó rất đỗi thiêng liêng, bởi vậy mà mỗi lần về đất liền nghỉ phép, anh lại nhớ biển, nhớ đồng đội đến nao lòng.
Với hành trình trên đảo lần này, ngoài các buổi giao lưu, tặng quà cán bộ, chiến sỹ trên đảo, đoàn còn tặng bản đồ các thiết bị viễn thông, nghe nhìn đến các đảo, nhà giàn và khai trương các điểm bưu điện tại nhiều điểm đảo. Tại các đảo Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa lớn, Bộ Thông tin và Truyền thông đã trao tặng tư liệu và bản đồ khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Các tư liệu được trao tặng tại Nam Yết, Sinh Tồn và tại triển lãm gồm các văn bản do triều đình phong kiến Việt Nam ban hành từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, khẳng định Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền liên tục đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong đó đáng chú ý là bộ sưu tập gồm 19 châu bản của Vương triều Nguyễn, có niên đại từ triều Minh Mạng (1820 - 1841) đến triều Bảo Đại (1925 - 1945) phản ánh quá trình xác lập và bảo vệ chủ quyền một cách liên tục dưới triều Nguyễn, do Uỷ ban Biên giới Quốc gia (Bộ Ngoại giao) nghiên cứu, tuyển chọn, biên dịch, công bố và do nhà nghiên cứu Phan Thuận An sưu tầm và hiến tặng, 5 văn bản Hán Nôm từ năm Gia Long thứ 2 (1803) đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836) ghi lại việc thành lập đội quân ra khảo sát các xứ của Hoàng Sa, 60 bản đồ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, do Việt Nam, phương Tây và Trung Quốc công bố từ thế kỷ XVI đến nay; ngoài ra là 15 văn bản hành chính thuộc Pháp và Việt Nam Cộng hòa về việc thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
Bên lề cuộc triển lãm, chúng tôi được biết thông tin chính xác: Bộ Thông tin và Truyền thông đã được một doanh nghiệp tài trợ mua Bộ Atlas bản đồ thế giới của Philipe Vandemaelen xuất bản năm 1827. Đây là một trong những tư liệu quý và cũng là bằng chứng thép làm tăng thêm bằng chứng không thể chối cãi về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.
Kỳ II: Những chiến sỹ trung kiên khi Tổ quốc gọi tên mình
Phạm Công Đảo
Ý kiến bình luận:
Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!
(Thanh tra) - Thủ tướng giao Bộ Xây dựng trong tháng 1/2026 hoàn thành đánh giá tác động các phương thức đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam; đề xuất các cơ chế, chính sách cho từng phương thức để trình Chính phủ.
Hương Giang
(Thanh tra) - Thông qua đối thoại trực tiếp, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền xã Chất Bình (Ninh Bình) đã lắng nghe, giải trình nhiều kiến nghị của Nhân dân liên quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính và an sinh xã hội, qua đó làm rõ trách nhiệm xử lý từ cơ sở.
Trung Hà
Hương Giang
Cảnh Nhật
Hương Giang
Thu Huyền
Chu Tuấn
Hương Giang
Trần Kiên
Thái Minh
PV
Nam Dũng
Trang Nguyệt
Trần Kiên
Trung Hà
Nam Dũng
Trung Hà
Cảnh Nhật