Sáng 18/3, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì hội nghị làm việc với Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và 19 tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước thuộc Ủy ban.

Sau gần 5 năm thành lập Ủy ban, mới đây, Bộ Chính trị đã ban hành kết luận, đồng ý chủ trương tiếp tục thực hiện mô hình Ủy ban là cơ quan trực thuộc Chính phủ, làm đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Bộ Chính trị yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, tiếp tục hoàn thiện mô hình, đổi mới hoạt động của Ủy ban để đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ đặt ra.

Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, hội nghị được tổ chức nhằm thực hiện kết luận của Bộ Chính trị để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động, sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty.

Đến cuối năm 2022, 19 tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước nắm giữ khoảng 63% tổng vốn chủ sở hữu và 65% tổng tài sản của doanh nghiệp nhà nước trong cả nước.

Người đứng đầu Chính phủ đánh giá, bên cạnh những kết quả rất quan trọng, cơ bản, đóng góp của các tập đoàn, tổng công ty chưa thực sự tương xứng với nguồn lực nắm giữ và dư địa phát triển còn rất lớn.

Ông đề nghị các đại biểu tập trung thảo luận, đánh giá kỹ lưỡng thành tựu, kết quả đã đạt được, cũng như chỉ ra những việc chưa làm được, tồn tại, hạn chế, xác định các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động, sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.

Theo Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, tính đến cuối năm 2022, tổng vốn chủ sở hữu hợp nhất của 19 tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 1,173 triệu tỷ đồng; tổng tài sản hợp nhất là 2,445 triệu tỷ đồng. 

Nguồn vốn và tài sản phân bổ tại 19 tập đoàn, tổng công ty và 479 công ty con và 368 công ty liên kết, tập trung vào 5 lĩnh vực chính, 16 ngành kinh tế kỹ thuật có tính chất, đặc điểm khác nhau của nền kinh tế, hiệu quả hàng năm được duy trì, nhưng phân bổ không đều, lợi nhuận chủ yếu tập trung vào một số tập đoàn, tổng công ty như: Petrolimex, Mobifone, ACV, VIMC, Vinachem, Vinataba, SCIC….

Chưa chú trọng đầu tư ngành, lĩnh vực có tính dẫn dắt, tạo động lực của nền kinh tế

Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đánh giá, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã thể hiện rõ vị trí, vai trò nòng cốt trong nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng; bảo đảm các cân đối lớn cho nền kinh tế và nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước.

Tính đến năm 2022, 19 tập đoàn, tổng công ty đã đảm bảo khoảng 87% điện năng, 50% xăng dầu bán lẻ, 100% khí khô, 70% khí hóa lỏng, 70% phân bón, 45% thuê bao di động, 41% băng rộng cố định mặt đất, 49% vận tải hành khách hàng không nội địa… 

Dù chịu ảnh hưởng ở mức độ khác nhau bởi dịch Covid-19 và những biến động phức tạp trong khu vực và quốc tế, có doanh nghiệp bị lỗ, giảm vốn chủ sở hữu, nhưng về cơ bản, các chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh đạt được hàng năm đều tăng trưởng.

Năm 2022, tổng doanh thu đạt gần 1,6 triệu tỷ đồng, tổng lợi nhuận trước thuế đạt hơn 83 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước hơn 191 nghìn tỷ đồng. Các kết quả này đều tăng so với năm 2021.

Cũng trong năm 2022, hợp nhất các tập đoàn, tổng công ty đã thực hiện đầu tư đạt gần 156 nghìn tỷ đồng, trong đó, lĩnh vực năng lượng (điện, than) đạt gần 126 nghìn tỷ đồng (chiếm 80,47%), xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông (cảng hàng không, cảng biển, đường cao tốc, logistics) đạt gần 16 nghìn tỷ đồng (chiếm 10,61%)...

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá, các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước đã có vai trò quan trọng trong xây dựng, phát triển hạ tầng với nhiều dự án đầu tư trọng điểm, có tính kết nối lan tỏa, động lực cao…

Tuy vậy, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty dù nắm giữ nguồn lực vốn, tải sản lớn nhưng chưa huy động, khai thác hiệu quả để đẩy mạnh thực hiện đầu tư các dự án quan trọng. Vì vậy, vai trò, vị trí của các doanh nghiệp có quy mô lớn không đạt như kỳ vọng.

Đáng chú ý, thời gian qua có rất ít dự án, công trình mới được khởi công, hầu như các tập đoàn, tổng công ty chỉ tiếp tục thực hiện dự án dở dang, hoặc xử lý dự án còn tồn đọng từ trước.

Các doanh nghiệp cũng chưa chú trọng đầu tư các ngành, lĩnh vực có tính dẫn dắt, tạo động lực, hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Hoạt động đầu tư cũng mang tính đơn lẻ, chưa có sự liên kết để thực hiện dự án lớn. Có nghịch lý là trong khi có những doanh nghiệp gặp khó khăn trong thu xếp nguồn vốn, như dự án điện, dầu khí, thì vẫn còn doanh nghiệp có vốn nhàn rỗi.

Hương Giang