Chia sẻ về công tác phòng chống lãng phí, tiêu cực trong quản lý sử dụng các cơ sở nhà, đất, ông Đinh Đức Hưng, Trưởng phòng 1, Cục IV (Thanh tra Chính phủ) cho biết, trong thời gian qua, Chính phủ, các bộ và UBND các cấp đã dành nguồn lực không nhỏ để đầu tư, cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đã góp phần cải thiện môi trường làm việc và tạo điều kiện thực hiện cải cách hành chính trong các cơ quan Nhà nước, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công.
Tuy nhiên, tại các địa phương, việc quản lý, sử dụng trụ sở làm việc còn chưa hiệu quả như đầu tư, xây dựng vượt định mức, chế độ, tiêu chuẩn gây lãng phí; nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh nghiệp được giao trụ sở, cơ sở hoạt động sự nghiệp nhưng sử dụng không đúng mục đích, không đúng quy định…
Đây đều là những hành vi gây lãng phí trong quản lý, sử dụng tài sản công được chỉ rõ tại Hướng dẫn số 63 - HD/BCĐ TW của Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013.
Theo ông Hưng, để khắc phục tình trạng trên, một số giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới là rà soát, sửa đổi các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quản lý, sử dụng tài sản công bảo đảm thống nhất, đồng bộ với các văn bản pháp luật có liên quan như Luật Đầu tư công, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở…
Bên cạnh đó, nâng cao đạo đức, năng lực đội ngũ cán bộ trong công tác quản lý Nhà nước về tài sản công, trong đó thực hiện nghiêm Luật Quản lý, sử dụng tài sản công trong việc báo cáo tình hình quản lý, sử dụng tài sản công; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng tài sản công.
Đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số; xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai thống nhất quốc gia theo Luật Đất đai, liên thông với Bộ Tài chính và các bộ, ngành, địa phương; áp dụng đấu giá điện tử cho các giao dịch tài sản công theo hướng dẫn về đấu giá tài sản.
Đồng thời, thực hiện tốt Chỉ thị số 23/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phát huy kết quả tổng kiểm kê tài sản công tại cơ quan, đơn vị, trong đó có các cơ sở nhà, đất. Các bộ, ngành, địa phương đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, bố trí và xử lý các cơ sở nhà, đất (tài sản công) sau khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, đơn vị hành chính cấp địa phương nhằm tránh lãng phí, bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động liên tục, phục vụ người dân, doanh nghiệp theo tinh thần Công điện số 213 của Thủ tướng Chính phủ.
Cũng theo ông Hưng, các cơ quan thanh tra, kiểm toán cần thực hiện cơ chế phối hợp tăng cường công tác thanh tra, kiểm toán đối với việc quản lý, sử dụng tài sản công của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp trong đó có nội dung về phòng, chống lãng phí trong quản lý, sử dụng cơ sở nhà, đất.
Trưởng phòng 1, Cục IV (Thanh tra Chính phủ) Đinh Đức Hưng cho rằng cần phải xử lý nghiêm các hành vi gây thất thoát, lãng phí, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài sản công.
Bên cạnh đó, nâng cao vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội đồng Nhân dân các cấp, phát huy vai trò của người dân trong quản lý, sử dụng nhà, đất, tài sản công. Tăng cường công khai thông tin để báo chí, người dân tham gia, giám sát.
Ông Trần Văn Dương, Trưởng phòng 2, Cục IV cho biết, nắm tình hình về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong giai đoạn hiện nay là một trong những công tác quan trọng, nhằm thu thập, xử lý thông tin, tài liệu liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực để giải quyết theo thẩm quyền của Cục IV hoặc tham mưu cho lãnh đạo Thanh tra Chính phủ xử lý, giải quyết theo thẩm quyền, theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ hoạt động quản lý Nhà nước và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của Thanh tra Chính phủ.
Ông Dương cũng cho biết, thời gian qua việc nắm tình hình về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của Cục IV được thực hiện thông qua báo cáo của Thanh tra các bộ, ngành, địa phương, qua các phương tiện thông tin đại chúng và một số cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan. Tuy nhiên, việc thực hiện qua các hình thức này đôi khi còn thụ động, chưa sâu sát, kịp thời, chưa đáp ứng hết yêu của công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong giai đoạn phát triển mới hiện nay.
Theo ông Dương, nguyên nhân là do công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực rất phức tạp và nhạy cảm, các quy định của Tổng Thanh tra Chính phủ về phân quyền, giao quyền cho Cục IV còn chưa rõ, chưa cụ thể.
Cũng theo ông Dương, trước yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong giai đoạn mới hiện nay, nhất là việc thực hiện tinh gọn bộ máy và chính quyền địa phương hai cấp và thực trạng về tham nhũng, lãng phí, tiêu cực diễn biến phức tạp, công tác nắm tình hình về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực cần được đổi mới theo hướng chủ động.
“Ngoài việc nắm tình hình thông qua báo cáo của Thanh tra các bộ, ngành, địa phương, qua các phương tiện thông tin đại chúng và một số cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan thì cần thiết cử các tổ công tác theo định kỳ kiểm tra nhanh về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhất là cử cán bộ chuyên tham dự các kỳ họp về công tác này tại các bộ, ngành, địa phương để kịp thời nắm bắt và xử lý các thông tin liên quan”, ông Dương nhấn mạnh.
Do vậy, ông Dương cho biết, Phòng nghiệp vụ 2 đã kiến nghị với lãnh đạo Cục IV có ý kiến với lãnh đạo Thanh tra Chính phủ cho phép thực hiện nhiệm vụ này đổi mới theo hướng chủ động. Đồng thời, cho phép xây dựng quy trình nắm tình hình về phòng, chống tham nhũng lãng phí, tiêu cực để bảo đảm quy trình chặt chẽ và quản lý cán bộ của Tổng Thanh tra Chính phủ.
Ông Bùi Nguyên Phúc, Trưởng phòng Kiểm soát tài sản, thu nhập (Cục IV) cho biết thực trạng công tác xác minh tài sản, thu nhập của Thanh tra Chính phủ nói riêng và của các bộ, ngành, địa phương nói chung thời gian qua còn nhiều vấn đề tồn tại trong quá trình triển khai, thực hiện.
Trong đó có một số khó khăn, vướng mắc như theo quy định tại Điều 48 về thời hạn báo cáo kết quả xác minh là không quá 45 ngày, trường hợp phức tạp có thể kéo dài nhưng không quá 90 ngày và Điều 49 về thời hạn ban hành kết luận xác minh là 10 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả xác minh.
Theo ông Phúc, quy định này chỉ phù hợp trong điều kiện xác minh đối với một trường hợp. Thực tế, số lượng cần phải xác minh hàng năm lớn, có thể lên đến hàng trăm trường hợp, do đó cần rất nhiều thời gian, nhân lực để tổ chức thực hiện.
Thứ hai theo ông Phúc là khó khăn trong việc cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ việc xác minh. Hiện nay việc yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân cung cấp thông tin cho cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập chỉ thực hiện sau khi có quyết định xác minh tài sản, thu nhập và thành lập tổ xác minh tài sản, thu nhập. “Tổng thời gian từ lúc gửi văn bản yêu cầu cung cấp thông tin, tiếp nhận thông tin; tổng hợp, rà soát, nghiên cứu, đánh gia; xây dựng báo cáo cá nhân; làm việc với người được xác minh để giải trình, cung cấp tài liệu bổ sung, xây dựng báo cáo kết quả xác minh của tổ trưởng… là 45 ngày thực tế không thể bảo đảm được”, ông Phúc chia sẻ.
Mặt khác, theo ông Phúc, thực tế nhiều cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin không kịp thời, không chính xác, chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, có cơ quan phải đính chính, điều chỉnh nhiều lần dẫn đến việc các thành viên tổ xác minh phải hủy kết quả cũ, tổng hợp thông tin mới, ảnh hưởng đến thời gian báo cáo, kết quả xác minh.
Thêm vào đó, chưa có chế tài cụ thể để xử lý vi phạm trong việc chậm, muộn cung cấp thông tin, trong việc cung cấp thông tin chưa đầy đủ, chưa chính xác, dẫn đến nhận định, đánh giá, so sánh có thể sai lệch, thiếu khách quan, chính xác. Có trường hợp, cùng 1 ngân hàng nhưng cung cấp thông tin khác nhau về tài khoản của người được xác minh dẫn đến nhiều lúng túng, vướng mắc khi lựa chọn số liệu của thành viên tổ xác minh.
Thứ ba là khó khăn trong quá trình thực hiện xác minh, theo ông Phúc, hiện nay, công tác xác minh vẫn hoàn toàn thực hiện trên các văn bản giấy gồm các bản kê khai tài sản, thu nhập, các thông tin gửi từ cơ quan, tổ chức, đơn vị, việc rà soát, tổng hợp các thông tin như tiền gửi ngân hàng, thông tin liên quan đến nhà đất, phương tiên giao thông… hoàn toàn cộng tay và nhập vào báo cáo.
Cách hiểu, cách đánh giá, nhận xét về tài sản, thu nhập, biến động tài sản, thu nhập còn chưa đồng nhất, dẫn đến nhận xét, kiến nghị còn thiếu thống nhất trên cùng một mặt bằng chung. Thời gian nghiên cứu, xác minh kéo dài. Việc ứng dựng công nghệ thông tin chưa được thực hiện trong suốt quá trình xác minh.
Từ những khó khăn, vướng mắc trên, ông Phúc cho biết, Phòng Kiểm soát tài sản, thu nhập đã kiến nghị lãnh đạo cục, lãnh đạo Thanh tra Chính phủ tổ chức tập huấn, thống nhất cách hiểu, cách đánh giá, nhận xét, so sánh, đối chiếu, đặc biệt trong việc xây dựng báo cáo cá nhân và kiến nghị về sự trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập; giải trình biến động tài sản, thu nhập tăng thêm, tránh tình trạng nhiều cách hiểu khác nhau, dẫn đến nhận định, đánh giá khác nhau; tránh tình trạng cùng 1 lỗi hoặc cùng 1 vi phạm nhưng có nhiều nhận định, nhiều kiến nghị khác nhau.
Bên cạnh đó, đề xuất lãnh đạo cục áp dụng mã QR và hòm thư điện tử của cơ quan Thanh tra Chính phủ trong việc đề nghị cung cấp và tiếp nhận thông tin có liên quan giúp giảm thiểu tối đa việc không đồng bộ trong thể thức văn bản cung cấp thông tin, giảm thời gian sàng lọc, lựa chọn, cung cấp; giảm thời gian tìm, sàng lọc thông tin có liên quan…
Đồng thời, đề nghị đẩy nhanh tiến độ trong việc xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu về kiểm soát tài sản, thu nhập, giúp mềm hóa các bản kiểm kê giấy, tránh tình trạng lưu trữ thủ công như hiện nay…