Theo dõi Báo Thanh tra trên
Chủ nhật, 13/04/2014 - 19:21
(Thanh tra) - Năm 2004, vợ chồng ông Phạm Văn Lợi và bà Trần Thị Kim Oanh, ngụ tại quận 6, TP. Hồ Chí Minh xảy ra mâu thuẫn và khởi kiện ra tòa để xin ly hôn. Trong quá trình giải quyết ly hôn, các quan hệ pháp luật về quan hệ vợ chồng và trách nhiệm nuôi con đã được Tòa án giải quyết và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Riêng phần chia tài sản chung vẫn chưa có hồi kết…
Theo đơn khởi kiện của ông Phạm Văn Lợi, trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng ông có tạo lập một khối tài sản gồm căn nhà số 106 Đặng Nguyên Cẩn, phường 13, quận 6; phần đất diện tích 2.058m2 tại số 589c Quốc lộ 1A, phường An Lạc, quận Bình Tân và nền nhà số 130 Bà Hom, phường 13, quận 6. Ông đề nghị chia khối tài sản này. Qua “năm lần bảy lượt” xét xử, TAND TP. Hồ Chí Minh nhận định: Căn nhà số 106 Đặng Nguyên Cẩn, phường 13, quận 6 do bà Thuẩn đứng tên sở hữu. Bà Thuẩn không thừa nhận đứng tên dùm vợ chồng ông Lợi, ông Lợi không có chứng cứ chứng minh căn nhà này là của ông nên Tòa án xác định tài sản này là của bà Thuẩn. Đối với phần đất 589 Quốc Lộ 1A, phường An Lạc, huyện Bình Tân và nền nhà số 130 Bà Hom, phường 13, quận 6 được ông Lợi, bà Oanh mua trong thời kỳ hôn nhân nên là tài sản chung của vợ chồng, chia đôi tài sản...
Không đồng ý, bà Oanh và người có quyền nghĩa vụ liên quan là bà Võ Thị Mầu (mẹ bà Oanh) có đơn khiếu nại giám đốc thẩm bản án phúc thẩm. VKSNDTC ra Kháng nghị số 141 ngày 21/10/2011 kháng nghị bản án phúc thẩm trên với lý do Tòa án hai cấp chưa làm rõ nguồn thu nhập của ông Lợi, bà Oanh. Tuy nhiên, Tòa Dân sự TANDTC đã bác kháng nghị của VKSNDTC và quyết định giữ nguyên Bản án phúc thẩm 381 ngày 4/4/2011 của TAND TP. Hồ Chí Minh.
Theo đó, Tòa Dân sự TANDTC nhận định rằng, nhà đất tại số 106 Đặng Nguyên Cẩn, phường 13, quận 6 Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định không phải tài sản chung vợ chồng của ông Lợi và bà Oanh, mà là tài sản của bà Thuẩn là có căn cứ chấp nhận.
Đối với diện tích đất 2.058m2 tại 589 Quốc Lộ 1A, phường An Lạc, huyện Bình Tân (đã giải tỏa lộ giới, còn lại 1.638m2), HĐXX giám đốc thẩm xét thấy: Theo “sổ đỏ” ngày 3/3/1999 của UBND huyện Bình Chánh thì bà Trần Thị Kim Oanh là người đứng tên. Bà Oanh không chứng minh được khối tài sản này là tài sản riêng của mình; hay có xác nhận của ông Lợi rằng, đây là tài sản riêng của bà Oanh. Theo Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, tài sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung vợ chồng. Việc một bên vợ hoặc chồng được đại diện bên kia đứng tên chủ quyền không có nghĩa đó là tài sản riêng của một bên. Do đó, có căn cứ để xác định diện tích đất này là tài sản chung của vợ chồng ông Lợi, bà Oanh.
Việc bà Oanh cho rằng, bà chỉ đứng tên giùm phần đất này cho bà Mầu, toàn bộ tiền để mua lô đất này là tiền của bà Mầu là không có cơ sở, bởi không có sự thừa nhận của ông Lợi. Bà Oanh cũng như bà Mầu đều không có chứng cứ nào chứng minh cho việc bà Mầu đã bỏ tiền ra mua đất và bà Oanh đứng tên giùm.
Thậm chí, việc bà Oanh cho rằng, ngày 23/9/2002, ông Lợi đã ủy quyền để bà chuyển nhượng cho bà Mầu diện tích đất này nên bà Mầu đã đứng tên chủ quyền đất từ năm 2002 đến nay.
Tuy nhiên, giấy ủy quyền ngày 23/9/2002 do ông Lợi ký ủy quyền, được UBND phường An Lạc, quận Bình Tân chứng thực, giấy ủy quyền có nội dung không rõ ràng. Theo xác nhận của Công an TP. Hồ Chí Minh, số CMND của bà Mầu ghi trong trong giấy ủy quyền là chưa hề được cấp. Còn UBND phường An Lạc xác nhận trong hồ sơ lưu trữ của phường không có tên của ông Phạm Văn Lợi ký ủy quyền ngày 23/9/2002. Như vậy, giấy ủy quyền này sai phạm cả hình thức, nội dung và thẩm quyền, vi phạm quy định tại Điều 48, khoản 2 Điều 61 Nghị định 75 ngày 8/12/2000 của Chính phủ. Do đó, giấy ủy quyền trên không có giá trị pháp lý và không làm phát sinh quyền của người được ủy quyền. Việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào giấy ủy quyền trên để cho bà Oanh sang nhượng phần đất này cho bà Mầu là không đúng. Nên Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định phần đất tại số 589 Quốc lộ 1A trên đã giải tỏa một phần, còn lại 1.638m2 là tài sản chung của ông Lợi, bà Oanh là có cơ sở.
Đối với nền đất số 130 khu chợ Phú Lâm, đường Bà Hom, phường 13, quận 6, TP. Hồ Chí Minh. Theo lời trình bày của người đại diện Công ty Bảo Thắng, ông Lợi là người trực tiếp đứng ra giao dịch, thương lượng để mua và khi ký hợp đồng chuyển nhượng thì chỉ một mình bà Oanh đứng ra ký là do yêu cầu từ phía công ty.
Bà Oanh cho rằng, nguồn tiền để mua lô đất này hoàn toàn là mượn của mẹ ruột và hai người dì ruột theo hợp đồng vay vàng ngày 14/8/2001 và đã nhận đủ 280 lượng vàng. Khoản vay này ông Lợi không thừa nhận. Thực tế, ngày 22/8/2001, khi ký hợp đồng với Công ty Bảo Thắng thì bên mua chỉ thanh toán được có 160 lượng vàng (mặc dù, theo điều khoản thanh toán trong hợp đồng thì bên mua phải thanh toán đủ 252 lượng vàng ngay sau khi ký). Như vậy, nếu căn cứ vào thời điểm vay vàng và thanh toán vàng với Công ty Bảo Thắng thì việc bà Oanh cho rằng đã thanh toán vàng cho Công ty Bảo Thắng bằng nguồn vay này là không có cơ sở. Chưa kể, khi ký hợp đồng cũng như cả ba lần thanh toán, ông Lợi đều cùng đi với bà Oanh. Do đó, lời khai của ông Lợi về việc do thời điểm mua lô đất vợ chồng ông không có đủ 252 lượng vàng nên ông thương lượng với Công ty cho thanh toán làm 3 đợt và đây là tài sản vợ chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân bằng nguồn tiền tích cóp được, là có căn cứ chấp nhận.
Căn cứ các chứng cứ mà ông Lợi xuất trình thì ông là nghề kinh doanh vàng, chế tác nữ trang và dịch vụ cầm đồ nên có thu nhập cao và ổn định. Điều đó cho thấy, nguồn tiền để mua tài sản của ông Lợi, bà Oanh là có cơ sở. Tài sản này cũng được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa bà Oanh, ông Lợi đang tồn tại nên ông Lợi không cần chứng minh tiền vàng của vợ chồng khi một trong hai giữ số tiền này. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định các khoản vay của bà Oanh với bà Mầu, bà Thuẩn, bà Miếu nếu có cũng là khoản nợ riêng của bà Oanh là có căn cứ.
Từ những lý lẽ trên, Tòa Dân sự TANDTC không chấp nhận kháng nghị của VKSNDTC, quyết định giữ nguyên Bản án có hiệu lực pháp luật số 381 ngày 4/4/2011 của TAND TP. Hồ Chí Minh xét xử vụ án tranh chấp tài sản chung vợ chồng giữa ông Lợi, bà Oanh.
Nghĩ rằng, vụ án kéo dài 10 năm, qua 06 phiên tòa xét xử, VKSNDTC đã 2 lần kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm sẽ chấm dứt với những phán quyết hợp tình, hợp lý. Thế nhưng, một lần nữa, VKSNDTC lại tiếp tục kháng nghị (lần 3) đối với Quyết định giám đốc thẩm trên của Tòa Dân sự TANDTC. Điều đáng nói là nội dung kháng nghị lần này của VKSNDTC không khác mấy so với nội dung kháng nghị đã bị Tòa Dân sự TANDTC bác trước đó (vì nội dung này đã được làm rõ ở các phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm). Câu hỏi được đặt ra khiến cho người dân không khỏi băn khoăn, còn những người trong cuộc hết sức lo lắng. Bao giờ vụ án này mới có điểm dừng?
Ý kiến bình luận:
Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!
(Thanh tra) - Như Báo Thanh tra đã phản ánh, dự án đầu tư xây dựng cơ bản công trình sửa chữa, bảo dưỡng đường trục tiểu khu Đông Đoài đi A27, kết nối vào đường gom thị trấn Phú Xuyên đi Vân Từ - Phú Yên, có tổng chiều dài chỉ 1.039m với tổng vốn đầu tư là 14,989 tỷ đồng và đã được Chủ tịch UBND huyện Phú Xuyên kết luận có nhiều sai phạm.
Nam Dũng
16:00 14/12/2024(Thanh tra) - Tại gói thầu số 12 thuộc Dự án Mở rộng đường Phú Mỹ - Tóc Tiên (từ khu tái định cư 105ha đến đường Hắc Dịch - Tóc Tiên - Châu Pha), thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu, Công ty CP Đầu tư xây dựng 886 - Thành Nam đã bị phát hiện có hành vi gian lận trong đấu thầu…
Ngọc Tuấn
08:00 14/12/2024Ngọc Tuấn
19:00 13/12/2024Thanh Giang
16:10 13/12/2024Chu Tuấn
15:37 13/12/2024Trung Hà
19:00 11/12/2024Ngọc Giàu
T.Lương
Đông Hà
Cảnh Nhật
Thu Huyền
Đông Hà
Đông Hà
Nguyễn Điểm
Kim Thành
Nam Dũng
Ngọc Giàu
Bảo Trân