Để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về những điểm mới quan trọng, tác động của các chính sách này trong thực tiễn, cũng như những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng, tiếp thu và hoàn thiện dự án Luật, Báo Thanh tra đã có cuộc trao đổi với TS Trần Đăng Vinh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ - người trực tiếp tham mưu xây dựng dự án Luật.

Dưới đây là nội dung cuộc phỏng vấn:

+ PV: Thưa ông, Luật sửa đổi lần này tác động đồng thời đến 3 lĩnh vực: tiếp công dân, khiếu nại và tố cáo. Ông đánh giá ý nghĩa lớn nhất của việc sửa cùng lúc 3 luật này là gì đối với hiệu quả quản lý nhà nước?

- TS Trần Đăng Vinh: Việc sửa đổi đồng thời 3 luật: Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo có ý nghĩa rất lớn đối với hiệu quả quản lý nhà nước, bởi đây là 3 lĩnh vực có mối quan hệ chặt chẽ, tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và trách nhiệm của các cơ quan công quyền.

Thứ nhất, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Trước đây, 3 luật được ban hành ở các thời điểm khác nhau, một số quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, phương thức tiếp công dân, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo… chưa hoàn toàn đồng bộ, gây khó khăn nhất định trong áp dụng. Lần sửa đổi này bảo đảm các quy định liên thông, nhất quán, khắc phục được tình trạng mỗi luật quy định một cách, cơ quan thực thi phải vừa làm vừa điều chỉnh. 

Thứ hai, nâng cao hiệu quả và tính chuyên nghiệp trong giải quyết công việc của cơ quan hành chính nhà nước. Việc luật hóa nhiều nội dung quan trọng như tiếp công dân trực tuyến; xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo; tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết khiếu nại; hoàn thiện quy định về rút khiếu nại, rút tố cáo… giúp quy trình giải quyết minh bạch, rõ ràng, hạn chế tình trạng kéo dài, đùn đẩy, trùng lặp.

Thứ ba, tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu và siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính. Luật sửa đổi quy định rõ hơn trách nhiệm tiếp công dân của Chủ tịch UBND cấp xã, trách nhiệm của HĐND, của các cơ quan thanh tra và cơ quan được giao tham mưu… Qua đó, mỗi cấp, mỗi vị trí đều có trách nhiệm cụ thể, tránh khoảng trống trách nhiệm - vốn là nguyên nhân dẫn tới nhiều vụ việc kéo dài trong thực tế.

Thứ tư, tạo chuyển biến thực chất trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Khi các quy định được hoàn thiện, người dân biết rõ hơn quyền, nghĩa vụ, trình tự thủ tục; cơ quan nhà nước có cơ sở pháp lý đầy đủ để thụ lý, giải quyết đúng và đủ. Điều này góp phần giảm khiếu nại, tố cáo vượt cấp; tăng cường niềm tin của người dân vào bộ máy hành chính.

Việc sửa đổi, bổ sung cùng lúc ba luật không phải là kỹ thuật lập pháp đơn thuần mà thể hiện quyết tâm chính trị của Quốc hội và Chính phủ trong việc xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại, lấy người dân làm trung tâm, thích ứng với những đổi mới sau khi sắp xếp tổ chức bộ máy, xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong công tác tiếp công dân, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

+ PV: Một số quy định mới như định danh người khiếu nại, người tố cáo hay tiếp công dân trực tuyến được dư luận quan tâm. Xin ông cho biết những thay đổi này sẽ giúp người dân được bảo đảm quyền lợi tốt hơn theo hướng nào?

- TS Trần Đăng Vinh: Trước hết phải khẳng định rằng, các quy định mới được thiết kế với mục tiêu cao nhất là tạo thuận lợi, bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, đồng thời hiện đại hóa hoạt động quản lý nhà nước. Có thể thấy một số điểm nổi bật sau:

Thứ nhất, quy định rõ ràng và đầy đủ hơn về định danh người khiếu nại, người tố cáo. Luật yêu cầu người dân cung cấp một trong các loại giấy tờ như căn cước, giấy chứng nhận căn cước, số định danh cá nhân, hộ chiếu… Đây không phải là siết thủ tục mà là để bảo vệ quyền của chính người dân.

Khi thông tin được chuẩn xác, cơ quan có thẩm quyền sẽ liên hệ, trả lời, thụ lý và giải quyết vụ việc nhanh hơn; tránh tình trạng đơn không rõ danh tính, hoặc thất lạc thông tin dẫn đến kéo dài xử lý. Đồng thời, quy định này cũng bảo đảm an toàn cho người khiếu nại, người tố cáo, đặc biệt trong các vụ việc nhạy cảm, bởi việc xác định danh tính rõ ràng giúp cơ quan nhà nước áp dụng đầy đủ các biện pháp bảo vệ theo Luật Tố cáo.

Thứ hai, việc luật hóa hình thức tiếp công dân trực tuyến là một bước cải cách lớn. Đây là điểm mới lần đầu tiên được quy định trong Luật Tiếp công dân. Tiếp công dân trực tuyến không chỉ phù hợp với xu hướng chuyển đổi số mà còn tạo điều kiện cho người dân ở xa có thể phản ánh, kiến nghị, gửi đơn mà không phải di chuyển.

Hình thức này cũng giúp tiết kiệm thời gian, chi phí xã hội, đồng thời tăng tính minh bạch vì toàn bộ quá trình được quản lý bằng hệ thống công nghệ thông tin. Về phía cơ quan nhà nước, dữ liệu tiếp công dân trực tuyến được tích hợp vào cơ sở dữ liệu quốc gia, giúp theo dõi được tiến độ, hạn chế thất lạc, bỏ sót.

Thứ ba, các thủ tục đại diện, rút khiếu nại, rút tố cáo được quy định cụ thể, minh bạch hơn. Điều này giúp giảm tình trạng khiếu nại, tố cáo kéo dài không cần thiết. Người dân có quyền chủ động hơn trong lựa chọn cách thức thực hiện, đồng thời đảm bảo rằng các quyền lợi hợp pháp của họ không bị ảnh hưởng khi có nhu cầu thay đổi yêu cầu hoặc ủy quyền cho người khác.

Thứ tư, các quy định mới về trách nhiệm của cán bộ, công chức trong tiếp công dân và giải quyết vụ việc sẽ nâng cao chất lượng phục vụ người dân. Khi rõ trách nhiệm của Chủ tịch UBND cấp xã, đại biểu HĐND, cơ quan thanh tra và đơn vị tham mưu thì người dân sẽ được phục vụ tốt hơn. Việc giảm các khâu trung gian, phân định rành mạch thẩm quyền cũng giúp giải quyết nhanh hơn, hạn chế tình trạng đùn đẩy trách nhiệm.

Tóm lại, các quy định mới không chỉ là sửa đổi về kỹ thuật pháp lý mà hướng đến mục tiêu rất thực tiễn đó là tạo thuận lợi tối đa, bảo vệ an toàn danh tính và quyền lợi của người dân, đồng thời hiện đại hóa và minh bạch hóa hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người dân sẽ được tiếp cận dịch vụ công một cách thuận tiện hơn, nhanh hơn và an toàn hơn.

+ PV: Quy định về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết khiếu nại được sửa đổi để rõ ràng và chặt chẽ hơn. Từ góc nhìn cơ quan soạn thảo, chính sách này sẽ khắc phục những bất cập nào trong thực tiễn thời gian qua, thưa ông?

- TS Trần Đăng Vinh: Trong thực tiễn giải quyết khiếu nại nhiều năm qua, quy định về tạm đình chỉ và đình chỉ còn chưa cụ thể, dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau ở các địa phương, gây khó khăn cho cả người dân và cơ quan nhà nước. Vì vậy, việc sửa đổi lần này nhằm giải quyết một số bất cập lớn sau đây:

Thứ nhất, khắc phục tình trạng không thống nhất trong xác định các căn cứ tạm đình chỉ và đình chỉ. Trước đây, luật chưa quy định đầy đủ, dẫn đến mỗi nơi hiểu một cách. Có địa phương tạm đình chỉ vì người dân vắng mặt; nơi khác lại vẫn tiếp tục giải quyết; có trường hợp vụ việc đã không còn đối tượng giải quyết nhưng cơ quan vẫn lo ngại không có căn cứ để đình chỉ.

Thứ hai, giải quyết dứt điểm tình trạng “kéo dài không cần thiết” trong nhiều vụ việc. Trong thực tế, có những vụ khiếu nại mà người dân không còn tiếp tục yêu cầu, hoặc rút khiếu nại nhưng cơ quan không có căn cứ rõ ràng để đình chỉ, dẫn đến vẫn phải mở hồ sơ, theo dõi, thậm chí bị tính là “chậm giải quyết”.

Thứ ba, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Việc tạm đình chỉ trong các trường hợp người khiếu nại không thể tiếp tục do bất khả kháng, hoặc cần chờ kết quả xử lý vấn đề liên quan, giúp bảo đảm quyền của người dân không bị mất đi một cách bất lợi. Thời gian tạm đình chỉ không tính vào thời hạn giải quyết, tránh việc người dân bị thiệt thòi vì lý do khách quan.

Thứ tư, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan giải quyết khiếu nại. Luật yêu cầu mọi quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ phải nêu rõ lý do, căn cứ pháp luật và gửi cho người khiếu nại, người bị khiếu nại và cơ quan liên quan. Điều này khắc phục tình trạng trước đây có nơi ra thông báo nhưng không nêu đủ căn cứ, hoặc không thông tin cho người dân, dẫn đến khiếu nại tiếp kéo dài.

Thứ năm, tạo hành lang pháp lý để xử lý hợp lý các vụ việc “không còn nội dung giải quyết”, một tình huống phổ biến nhưng chưa được luật quy định cụ thể. Ví dụ: quyết định bị khiếu nại đã được cơ quan có thẩm quyền thay thế bằng quyết định mới; đối tượng khiếu nại đã không còn tồn tại… Các trường hợp này nay đã được luật quy định rõ là thuộc căn cứ đình chỉ.

Tóm lại, chính sách về tạm đình chỉ và đình chỉ không chỉ hoàn thiện kỹ thuật lập pháp mà giải quyết những vướng mắc lâu nay trong thực tiễn, giúp quy trình giải quyết khiếu nại minh bạch, thống nhất, tránh kéo dài, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân ở mức tốt nhất.

+ PV: Vậy trong quá trình soạn thảo và tiếp thu, chỉnh lý, nội dung nào còn nhiều ý kiến khác nhau giữa các cơ quan và Đại biểu Quốc hội? Việc lựa chọn phương án cuối cùng dựa trên những căn cứ nào, thưa ông?

- TS Trần Đăng Vinh: Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện dự án Luật, có một số nội dung nhận được nhiều ý kiến khác nhau từ các cơ quan, tổ chức và Đại biểu Quốc hội. Điều này là bình thường, bởi các quy định của Luật liên quan trực tiếp đến quyền công dân và trách nhiệm của nhiều cấp, nhiều ngành. Có thể khái quát một số nhóm vấn đề lớn như sau:

Thứ nhất, về mô hình tổ chức và trách nhiệm của các cấp trong tiếp công dân, một số ý kiến đề nghị thành lập Ban tiếp công dân cấp xã và bố trí trụ sở tiếp công dân cấp xã, nhưng quy định này không phù hợp chủ trương tinh gọn tổ chức, bộ máy cải cách hành chính.

Thứ hai, về thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định, hành vi hành chính của Chủ tịch UBND cấp xã, có ý kiến đề nghị giao cho Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh. Cuối cùng, phương án được lựa chọn là giữ thẩm quyền ở cấp tỉnh, nhưng chỉnh lý cho thống nhất cách diễn đạt, bảo đảm phù hợp thực tiễn quản lý ngành, lĩnh vực và tránh phát sinh thủ tục.

Thứ ba, về cơ chế tiếp công dân trực tuyến, luật chỉ quy định mang tính nguyên tắc, giao Chính phủ quy định chi tiết, bảo đảm vừa có căn cứ pháp lý, vừa linh hoạt trong triển khai công nghệ.

Thứ tư, về quy định tạm đình chỉ và đình chỉ giải quyết khiếu nại, có ý kiến lo ngại nếu quy định quá rộng sẽ tạo kẽ hở cho việc né tránh trách nhiệm; ngược lại, có ý kiến đề nghị bổ sung thêm căn cứ để xử lý các tình huống thực tế phát sinh. Cuối cùng, chúng tôi chọn phương án quy định đầy đủ, rõ ràng, kèm yêu cầu quyết định phải nêu rõ lý do và gửi cho người dân, bảo đảm chặt chẽ nhưng không làm phát sinh rủi ro lạm dụng.

Thứ năm, về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong một số trường hợp đặc thù. Đặc biệt là việc Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Tổng Thanh tra Chính phủ thụ lý, kết luận một số vụ việc tố cáo. Có ý kiến đề nghị giữ cơ chế như hiện hành; ý kiến khác đề nghị quy định rõ hơn để nâng cao hiệu quả. Phương án được lựa chọn là luật hóa cụ thể cơ chế ủy quyền, nhưng bảo đảm Thủ tướng vẫn xem xét, cho ý kiến trước khi công bố kết luận.

Việc lựa chọn phương án cuối cùng dựa trên những căn cứ nào? Đây là vấn đề mà cơ quan chủ trì soạn thảo đã nghiên cứu kỹ. Tất cả các nội dung được chọn đều dựa trên các tiêu chí cơ bản sau: Tuân thủ Hiến pháp và bảo đảm tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; phù hợp thực tiễn quản lý, tránh làm phát sinh thêm đầu mối, thủ tục, chi phí; nhận được sự đồng thuận cao của các cơ quan, địa phương và đa số Đại biểu Quốc hội; phù hợp tinh thần cải cách hành chính, chuyển đổi số và định hướng xây dựng Chính phủ điện tử.

Tóm lại, các phương án được lựa chọn cuối cùng vừa bảo đảm tính pháp lý chặt chẽ, vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tạo khuôn khổ pháp lý minh bạch, thuận lợi, phục vụ người dân tốt hơn.

+ PV: Từ những điểm mới quan trọng đã được thông qua, ông kỳ vọng Luật sửa đổi sẽ tạo chuyển biến cụ thể nào trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ngay trong giai đoạn đầu triển khai?

- TS Trần Đăng Vinh: Tôi cho rằng, với những sửa đổi mang tính căn cơ, đồng bộ và thực chất, Luật sẽ tạo ra những chuyển biến rõ rệt ngay từ giai đoạn đầu thực thi. Có thể kỳ vọng vào một số thay đổi nổi bật sau:

Thứ nhất, chất lượng phục vụ người dân trong tiếp công dân sẽ được nâng lên một bước. Việc quy định rõ trách nhiệm của Chủ tịch UBND cấp xã, Thường trực HĐND, cơ quan hành chính và cơ quan thanh tra sẽ giúp hoạt động tiếp dân đi vào nền nếp hơn, tránh tình trạng hình thức hoặc né tránh. Đặc biệt, khi đã có quy định cụ thể về thời gian, địa điểm, điều kiện bảo đảm thì người dân sẽ được tiếp đón, lắng nghe và hướng dẫn một cách trách nhiệm, đúng pháp luật và đúng đối tượng.

Thứ hai, áp dụng hình thức tiếp công dân trực tuyến sẽ tạo ra một kênh tiếp nhận mới, thuận tiện và minh bạch.

Trong bối cảnh chuyển đổi số, đây sẽ là công cụ giúp người dân dễ dàng gửi kiến nghị, phản ánh, hạn chế đi lại và giảm chi phí xã hội. Đồng thời, việc số hóa dữ liệu ngay từ khâu tiếp nhận sẽ giúp các cơ quan quản lý theo dõi, phân loại, xử lý vụ việc nhanh hơn và chính xác hơn.

Thứ ba, quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo sẽ rõ ràng, minh bạch và rút ngắn thời gian hơn trước.

Việc luật hóa các căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ; quy định về rút khiếu nại, rút tố cáo; cơ chế đại diện; trách nhiệm gửi quyết định cho người dân… sẽ giúp hạn chế tình trạng kéo dài, tồn đọng và chồng chéo. Người dân sẽ được biết rõ hơn quyền và nghĩa vụ của mình, còn cơ quan nhà nước thì có đầy đủ công cụ pháp lý để xử lý dứt điểm từng vụ việc.

Thứ tư, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong thi hành công vụ. Các quy định mới về trách nhiệm của người đứng đầu, của cơ quan tham mưu, về theo dõi và đôn đốc thực hiện kết luận khiếu nại, tố cáo… sẽ tạo sức ép tích cực để cán bộ, công chức thực hiện nghiêm nhiệm vụ. Qua đó, hạn chế tình trạng đùn đẩy trách nhiệm hoặc giải quyết qua loa, dẫn đến người dân phải khiếu nại, tố cáo nhiều lần.

Thứ năm, minh bạch hóa hoạt động quản lý nhà nước và nâng cao niềm tin của người dân. Khi quy trình được chuẩn hóa, thông tin được công khai, dữ liệu được số hóa, trách nhiệm của từng cấp, từng cơ quan được quy định rõ ràng, thì hiệu quả giải quyết vụ việc sẽ tăng lên, góp phần củng cố lòng tin của người dân vào cơ quan công quyền.

Xuất bản 17/12/2025 - 06:00 Tác giả: Bảo Anh - Minh Nguyệt

Tin cùng chuyên mục

Phòng, chống tham nhũng: Tập trung kiểm soát biến động tài sản lớn, chuyển mạnh từ “xử lý” sang “phòng ngừa”

Phòng, chống tham nhũng: Tập trung kiểm soát biến động tài sản lớn, chuyển mạnh từ “xử lý” sang “phòng ngừa”

(Thanh tra) - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng vừa được Quốc hội thông qua, đánh dấu bước tiến quan trọng trong hoàn thiện thể chế phòng, chống tham nhũng. Đây là dự án Luật được xây dựng theo trình tự rút gọn, tập trung vào các vấn đề trọng tâm, nhằm thể chế hoá các chủ trương lớn của Đảng, qua đó đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn.

Bảo Anh - Dương Nguyễn (Thực hiện)

07:00 17/12/2025
Luật hóa tiếp công dân trực tuyến để bảo vệ tốt nhất quyền lợi công dân

Luật hóa tiếp công dân trực tuyến để bảo vệ tốt nhất quyền lợi công dân

(Thanh tra) - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo vừa được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 10. Lần sửa đổi này tập trung vào nhiều chính sách lớn nhằm giải quyết những bất cập kéo dài và đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Bảo Anh - Minh Nguyệt

06:00 17/12/2025

Tin mới nhất

Xem thêm