Luật Thanh tra sửa đổi được Quốc hội thông qua với tuyệt đa số đại biểu tán thành (đạt 92,68%) sáng 25/6. Một trong những điểm mới đáng chú ý là hệ thống cơ quan thanh tra.
Với luật mới, hệ thống các cơ quan thanh tra được tổ chức theo 2 cấp gồm: Thanh tra Chính phủ và Thanh tra tỉnh, thành phố (gọi chung là Thanh tra tỉnh).
Bên cạnh đó, có các cơ quan thanh tra đặc thù, đó là: cơ quan thanh tra trong công an, quân đội, ngân hàng Nhà nước (Thanh tra Bộ Quốc phòng, Thanh tra Bộ Công an, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan thanh tra khác trong quân đội, công an nhân dân, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo quy định của Chính phủ); Thanh tra Cơ yếu; cơ quan thanh tra được thành lập theo điều ước quốc tế.
Tổ chức và hoạt động cụ thể của Thanh tra Cơ yếu và cơ quan thanh tra được thành lập theo theo điều ước quốc tế, luật giao Chính phủ quy định.
Như vậy, so với luật hiện hành, đã lược bỏ quy định về Thanh tra Bộ; Thanh tra Tổng cục, Cục thuộc Bộ; cơ quan thanh tra ở cơ quan thuộc Chính phủ, Thanh tra sở, Thanh tra huyện, tổ chức và hoạt động của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành…
Chức năng của cơ quan thanh tra cũng có điểm mới khi bổ sung “phòng chống lãng phí”, theo luật mới cũng bổ sung điểm mới.
Cơ quan thanh tra có chức năng giúp cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tiến hành thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực theo quy định của pháp luật.
Luật mới quy định thống nhất một khái niệm thanh tra, không phân biệt thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Theo đó, “thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, kết luận, kiến nghị xử lý của cơ quan thanh tra đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định”.
Chính phủ cho biết, khái niệm “thanh tra” đã bao quát toàn bộ hoạt động thanh tra, trong đó có thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các cơ quan hành chính Nhà nước và thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật với các đối tượng thuộc phạm vi quản lý Nhà nước.
Khái niệm trên cũng được kế thừa từ Luật Thanh tra năm 2022 và sửa đổi, hoàn thiện phù hợp với chủ trương, chính sách về thanh tra và thực tiễn của hoạt động thanh tra hiện nay.
Trên cơ sở đó, Thanh tra Chính phủ và Thanh tra tỉnh tiến hành thanh tra theo trình tự, thủ tục thống nhất được pháp luật quy định và về phương thức cơ bản giống như hiện nay.
Luật mới quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra Bộ Quốc phòng, Thanh tra Bộ Công an, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước. Bởi, các cơ quan thanh tra này khác nhau về địa vị pháp lý, phạm vi quản lý Nhà nước.
Đáng chú ý, Luật Thanh tra sửa đổi đã bổ sung quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nhằm tăng cường mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra và các bộ, ngành, các sở và bảo đảm hiệu quả của công tác quản lý nhà nước.
Trong đó, Thanh tra Chính phủ thanh tra theo đề nghị của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ; yêu cầu bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh cử người có chuyên môn nghiệp vụ tham gia Đoàn thanh tra của Thanh tra Chính phủ khi cần thiết.
Thanh tra tỉnh thanh tra theo đề nghị của giám đốc sở, chủ tịch UBND cấp xã; đề nghị giám đốc sở, Chủ tịch UBND cấp xã cử công chức có chuyên môn phù hợp tham gia Đoàn thanh tra của Thanh tra tỉnh khi cần thiết...
Luật cũng quy định bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn mới cho Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh.
Cụ thể, Thanh tra Chính phủ có quyền “thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc quyền quản lý của bộ với bộ không có Thanh tra Bộ”; “thanh tra việc chấp hành pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ không có Thanh tra bộ”.
Vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý Nhà nước của nhiều bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh, cũng thuộc quyền thanh tra của Thanh tra Chính phủ.
Với Thanh tra tỉnh, luật quy định bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn “thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác và đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND cấp tỉnh” cho phù hợp với pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương.
Đồng thời, quy định cụ thể về việc thanh tra đối với UBND cấp xã và cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp xã.
Báo cáo trước khi Quốc hội bấm nút, Tổng Thanh tra Đoàn Hồng Phong cho hay, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, cơ quan chủ trì soạn thảo đã phối hợp với Uỷ ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội bổ sung quy định: “Cơ quan thanh tra không thanh tra đối với những nội dung thuộc thẩm quyền kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính của Viện kiểm sát”.
Để tránh việc chồng chéo, trùng lặp với Thanh tra tỉnh trong việc thanh tra doanh nghiệp do UBND cấp tỉnh làm đại diện chủ sở hữu, luật quy định “trừ trường hợp Thanh tra Chính phủ tiến hành thanh tra”.
Với việc xử lý chồng chéo, trùng lặp giữa Thanh tra Chính phủ với Thanh tra tỉnh hay giữa các cơ quan thanh tra, luật giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này.
Về kinh phí hoạt động của cơ quan thanh tra; chế độ, chính sách với thanh tra viên, luật quy định, kinh phí hoạt động của cơ quan thanh tra do ngân sách nhà nước bảo đảm.
Cơ quan thanh tra được trích một phần từ các khoản tiền thu hồi, phát hiện qua thanh tra sau khi nộp vào ngân sách Nhà nước theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để chi cho hoạt động và nâng cao năng lực của cơ quan thanh tra.
Chế độ, chính sách, phụ cấp với thanh tra viên do Chính phủ quy định.
Thảo luận nội dung này trước đó, có ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị xem xét quy định về việc trích kinh phí trên số tiền thu hồi phát hiện qua thanh tra, vì các hoạt động thanh tra đã được ngân sách Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Ý kiến khác đề nghị chỉnh lý theo hướng cơ quan thanh tra được trích 1 phần từ các khoản tiền thu hồi phát hiện qua thanh tra và từ xử phạt vi phạm hành chính của người có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra; quy định rõ tỷ lệ được trích trong luật.
Giải trình, Chính phủ cho biết, việc trích một phần từ các khoản tiền thu hồi phát hiện qua thanh tra thực nộp ngân sách nhà nước và cho phép cơ quan thanh tra được sử dụng nguồn kinh phí trích để bảo đảm cho hoạt động đặc thù của cơ quan thanh tra đã được quy định, thực hiện ổn định từ năm 2006 đến nay.
Thông tư liên tịch số 42 năm 2006 và hiện là Nghị quyết 37 năm 2023 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định, các cơ quan thanh tra được trích một phần từ các khoản tiền thu hồi phát hiện qua thanh tra sau khi nộp vào ngân sách nhà nước.
Hằng năm, các cơ quan thanh tra báo cáo khoản tiền thu hồi qua thanh tra thực nộp ngân sách nhà nước kèm theo dự toán sử dụng kinh phí gửi cơ quan tài chính cùng cấp để trình cơ quan có thẩm quyền bố trí kinh phí cho cơ quan thanh tra.
Kinh phí trích được chi tiêu đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ; được kiểm soát chi qua Kho bạc Nhà nước và được thẩm định, kiểm tra, kiểm toán, quyết toán theo quy định của pháp luật.
Chính phủ khẳng định, khoản kinh phí này có tác dụng giúp cơ quan thanh tra thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực - những lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, có tính chất như một số ngành nội chính; nhất là trong phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực, đòi hỏi phải có sự bảo đảm từ ngân sách nhà nước để tăng cường năng lực và tạo sự chủ động cho cơ quan thanh tra.
Sau khi rà soát, cơ quan soạn thảo là Thanh tra Chính phủ tiếp thu và đề xuất chỉnh lý quy định về kinh phí hoạt động của cơ quan thanh tra như luật được Quốc hội thông qua.
Luật Thanh tra sửa đổi có 64 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025.
Luật Thanh tra sửa đổi quy định rõ 8 hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động thanh tra tại Điều 6
1. Cố ý không ra quyết định thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật phải tiến hành thanh tra; thanh tra không đúng thẩm quyền, không đúng với nội dung quyết định thanh tra, kế hoạch tiến hành thanh tra đã được phê duyệt.
2. Nhận hối lộ, môi giới hối lộ, đưa hối lộ trong hoạt động thanh tra; lợi dụng chức vụ, quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; lạm quyền trong quá trình tiến hành thanh tra.
3. Bao che, cố ý bỏ lọt hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; cố ý kết luận sai sự thật, không có căn cứ pháp luật; cố ý quyết định, xử lý trái pháp luật; không kiến nghị khởi tố và chuyển hồ sơ vụ việc có dấu hiệu tội phạm được phát hiện qua thanh tra đến cơ quan điều tra theo quy định; không xử lý, kiến nghị xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; không xử lý hoặc kiến nghị xử lý, thu hồi tiền, tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát, lãng phí được phát hiện qua thanh tra theo quy định.
4. Tiết lộ thông tin, tài liệu liên quan đến cuộc thanh tra khi kết luận thanh tra chưa được công khai.
5. Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh tra; tác động làm sai lệch kết quả thanh tra, kết luận, kiến nghị thanh tra.
6. Không cung cấp thông tin, tài liệu hoặc cung cấp không kịp thời, không đầy đủ, không trung thực, thiếu chính xác; chiếm đoạt, tiêu hủy, làm sai lệch tài liệu, vật chứng liên quan đến nội dung thanh tra.
7. Chống đối, cản trở, mua chuộc, đe dọa, trả thù, trù dập người tiến hành thanh tra, người giám sát, người thẩm định, người cung cấp thông tin, tài liệu cho cơ quan thanh tra; gây khó khăn cho hoạt động thanh tra.
8. Hành vi khác bị nghiêm cấm theo quy định của luật.