Ca khúc: Tự hào người làm báo Thanh tra

Theo dõi Báo Thanh tra trên

Tòa “lắt léo vận dụng” văn bản chứng cứ

Thứ sáu, 18/05/2012 - 09:32

(Thanh tra)- Phát hiện cô ruột cùng chồng là chấp hành viên thi hành án ngang nhiên xây nhà trái phép lấn đất ở nhờ của gia đình, ông Nguyễn Lê Hoài Thanh đã làm “đơn thưa” vợ chồng bà Nguyễn Ngọc Linh - Huỳnh Văn Tuấn ra tòa.

Ông Toàn và ông Đoàn khẳng định “không chấp nhận nội dung cho đất ngang 11,5m, dài khoảng trên 37m”

•Cần làm rõ “tờ thỏa thuận” liên quan vụ án.

Sau khi hòa giải không thành, ông Thanh tiếp tục khởi kiện yêu cầu phía bị đơn trả lại phần đất chủ quyền. Tuy nhiên, tại phiên sơ thẩm ngày 20/10/2011, Tòa Dân sự TAND thị xã (TX) Hồng Ngự (Đồng Tháp) đã tuyên “bác yêu cầu” trả đất lấn chiếm của ông Thanh.

Nghiên cứu hồ sơ và xác minh vụ việc liên quan, chúng tôi nhận thấy TAND TX Hồng Ngự đã vận dụng văn bản chứng cứ “xử ép” ông Thanh.

Tại Biên bản hòa giải trước khi đưa vụ án ra xét xử do TAND TX Hồng Ngự lập ngày 17/1/2011, nguyên đơn Nguyễn Lê Hoài Thanh ủy quyền cho ông Lê Văn Lang trình bày: Phần đất 497m2 tại ấp An Lợi (xã An Bình A, TX Hồng Ngự, Đồng Tháp) nguyên là của ông Nguyễn Văn Toàn, do cha mẹ để lại. Sau khi được cấp quyền sử dụng đất (QSDĐ) ngày 22/3/2000, ông Toàn đã tặng lại cho con là Nguyễn Lê Hoài Thanh.

Ngày 27/6/2006, UBND huyện (nay là TX) Hồng Ngự đã cấp giấy chứng nhận (GCN) QSDĐ 497m2 cho ông Thanh.

Trước đó, năm 1998, bà Nguyễn Ngọc Linh (cô của ông Thanh) thỏa thuận bằng miệng “cất nhà ở tạm” ngang 4m, dài 16m trên phần đất này, đến khi nào ông Toàn có nhu cầu bà Linh sẽ trả lại. Tuy nhiên, sau một thời gian ở nhờ, ngày 6/10/2010, vợ chồng ông bà Linh - Tuấn “ngang nhiên xây nhà trái phép” 154,8m2 trên phần đất vừa nêu mà không được sự đồng ý của gia đình. Do vậy, ông Thanh “yêu cầu vợ chồng ông bà Linh - Tuấn tháo dỡ di dời nguyên vật liệu” trả lại phần đất chủ quyền.

Tại biên bản hòa giải của TAND TX Hồng Ngự, bị đơn Nguyễn Ngọc Linh cho rằng: Nguồn gốc “đất tranh chấp” là do cha mẹ Nguyễn Văn Trung và Nguyễn Thị Hón để lại. Khi bà lập gia đình, anh em trong gia đình “có thống nhất cho vợ chồng bà đất nhưng không rõ thời gian” và không có giấy tờ.

Năm 1999, những người trong gia đình (bao gồm các ông bà: Hiếu, Dẫn, Toản, Bàng, Đoàn, Thu, Quyên) có làm “tờ thỏa thuận” cho vợ chồng bà quản lý phần đất ngang 11,5m, dài 37m.

Năm 2001, bà Linh đã được chính quyền huyện Hồng Ngự cấp GCN QSDĐ 241m2, nhưng “không hiểu vì sao” diện tích đất cấp ít hơn thực tế đất sử dụng hiện nay.

Cùng quan điểm với vợ, ông Huỳnh Văn Tuấn (chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự TX Hồng Ngự) cho rằng, toàn bộ đất là do cha mẹ vợ để lại. Từ năm 1999 trở về trước chưa ai có GCN QSDĐ. Phần đất của vợ chồng ông đã được cấp “sổ đỏ” năm 2001. Nay, vợ chồng ông “không đồng ý tháo dỡ toàn bộ vật kiến trúc xây dựng ra khỏi đất tranh chấp” để trả lại đất cho ông Thanh.

Tại phiên sơ thẩm xét xử ngày 20/10/2011, Tòa Dân sự TAND TX Hồng Ngự xác nhận, diện tích đất tranh chấp 154,8m2 tại ấp An Lợi, xã An Bình A “là một phần thửa số 9 tờ bản đồ 21 nằm GCN QSDĐ của ông Thanh” do UBND TX Hồng Ngự cấp. Tuy nhiên, theo TAND TX, những “người làm chứng” trong gia đình ông Toàn (nhưng không có mặt tại tòa) đều thống nhất cho bà Linh sử dụng đất ngang 11,5m, dài 37m trước quốc lộ 30 theo tờ thỏa thuận ngày 16/4/1999.

Đồng thời, khi tòa yêu cầu chính quyền trả lời phần đất liên quan, UBND TX Hồng Ngự đã có Công văn 379/UB ngày 25/5/2011 trả lời: Việc cấp QSDĐ cho ông Toàn (cha ông Thanh) là đúng trình tự thủ tục quy định, nhưng không thẩm định thực tế “nên không xác định được trên đất này có một phần nhà” của vợ chồng ông bà Linh - Tuấn.

Theo TAND TX Hồng Ngự “việc cấp chứng nhận QSDĐ này là chưa phù hợp” pháp luật, vì Điều 3 Luật Đất đai năm 2003 quy định “giao đất, cho thuê đất đối với đất có người đang sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi có quyết định thu hồi đất đó”.

Từ những “chứng cứ và nhận định” vừa nêu, TAND TX Hồng Ngự tuyên xử: Không chấp nhận việc nguyên đơn Nguyễn Lê Hoài Thanh yêu cầu phía bị đơn vợ chồng ông bà Linh - Tuấn “tháo dỡ nhà vật kiến trúc xây dựng ra khỏi phần đất tranh chấp” để trả lại cho ông Thanh 154,8m2 tại thửa số 9 tờ bản đồ 21 do UBND TX Hồng Ngự cấp.

Chúng tôi cho rằng, TAND TX Hồng Ngự đã “lắt léo” vận dụng Công văn 379/UB ngày 25/5/2011 của UBND TX với nội dung “khi cấp QSDĐ cho ông Toàn (cha ông Thanh) không thẩm định thực tế nên không xác định được trên phần đất này có một phần nhà của vợ chồng ông bà Linh - Tuấn”.

Vấn đề đặt ra, nếu nhà vợ chồng ông bà Linh - Tuấn ở nhờ trên đất của ông Toàn thì việc cấp QSDĐ cho ông Toàn trước đó “có cần phải mô tả phần nhà người khác ở nhờ” hay không?

TAND TX cho rằng, việc cấp QSDĐ cho ông Thanh sau khi ông Toàn tặng đất “chưa phù hợp” pháp luật vì Điều 3 Luật Đất đai năm 2003 quy định “việc giao đất cho người khác đối với đất có người đang sử dụng chỉ được thực hiện sau quyết định thu hồi đất đó”. Trên thực tế, việc cấp QSDĐ cho ông Toàn đã được chính quyền thực hiện năm 2000, còn TAND TX Hồng Ngự lại vận dụng Luật Đất đai năm 2003. Thời điểm chính quyền cấp “sổ đỏ” cho ông Toàn là khi vợ chồng ông bà Linh -  Tuấn chưa được cấp QSDĐ trên đất ông Toàn. Vậy, căn cứ nào để “Tòa TX buộc chính quyền” ra quyết định thu hồi đất của vợ chồng ông bà Linh - Tuấn, trước khi ông Toàn tặng cho con là ông Thanh?

Có thể TAND TX Hồng Ngự “tự mâu thuẫn mình” giữa việc “xác nhận phần đất 154,8m2 tranh chấp là một phần trong thửa số 9 tờ bản đồ 21 thuộc QSDĐ do UBND TX cấp cho ông Thanh”, với việc “không chấp nhận ông Thanh yêu cầu vợ chồng ông bà Linh - Tuấn tháo dỡ phần nhà trên đất tranh chấp 154,8m2 để lại trả cho ông Thanh” tại thửa số 9 tờ bản đồ 21 do chính UBND TX Hồng Ngự cấp. Nhưng,điều đáng quan ngại, TAND TX đã nhận định “theo tờ thỏa thuận ngày 16/4/1999 những người làm chứng trong gia đình ông Toàn thống nhất” cho bà Linh SDĐ. Tuy nhiên, tài liệu có được cho thấy, thỏa thuận do tòa viện dẫn không có bản chính và không có xác nhận của chính quyền địa phương.

Ngày 13/5/2012, chúng tôi có mặt tại nhà ông Toàn (có cả ông Bàng và ông Đoàn là em ông Toàn) để xác minh. Tại đây, ông Bàng xác nhận vào mặt trước tờ thỏa thuận “tôi có ký tờ thỏa thuận năm 2011 chứ không ký vào năm 1999”. Còn ở mặt sau tờ thỏa thuận, ông Toàn xác nhận “thỏa thuận này mới năm 2011 (sau khi vợ chồng ông bà Linh - Tuấn bị kiện ra tòa) không phải lập năm 1999”. Đồng thời, sau khi xem kỹ tờ thỏa thuận bị cho là “ngụy tạo”, các ông đều xác nhận “không chấp nhận nội dung cho đất ngang 11,5m, dài khoảng trên 37m theo thỏa thuận này” trước khi ký tên.

Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn Nguyễn Lê Hoài Thanh, Trưởng Văn phòng Luật sư Trương Đình Tùng tại TP Hồ Chí Minh đã có văn bản gửi TAND tỉnh Đồng Tháp. Căn cứ đề nghị “dừng phiên tòa để bị đơn cung cấp bản chính chứng cứ liên quan” của đại diện Viện Kiểm sát và quyết định tạm dừng phiên tòa phúc thẩm ngày 17/4/2012 của Hội đồng xét xử, Văn phòng Luật sư Trương Đình Tùng cho rằng: Nếu phía bị đơn - vợ chồng bà Nguyễn Ngọc Linh và ông Huỳnh Văn Tuấn cung cấp được bản chính tờ thỏa thuận ngày 16/4/1999 thì đề nghị cho “trưng cầu giám định tuổi mực của toàn văn bản” để xác định tờ thỏa thuận này có được lập đúng ngày 16/4/1999 hay không.

Về nội dung, sau khi đưa ra những chứng cứ và quan điểm chống lại bị đơn, Văn phòng Luật sư “đề nghị Hội đồng xét xử yêu cầu bị đơn tháo dỡ toàn bộ phần nhà xây dựng trái pháp luật” để trả lại 154,8m2 đất cho nguyên đơn ủy quyền ông Lê Văn Lang làm đại diện.

Chúng tôi sẽ đề cập vấn đề này trong số báo tiếp theo.


Trúc Lâm

Ý kiến bình luận:

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!

Tin cùng chuyên mục

Tin mới nhất

Xem thêm