Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ chia đôi đất nước. Vĩ tuyến 17 với dòng sông Bến Hải và cây cầu Hiền Lương trở thành vết cắt trên thân thể non sông. Miền Bắc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Nam rơi vào ách kìm kẹp của chính quyền Sài Gòn và cố vấn Mỹ. Và Vĩnh Linh – mảnh đất ở “đầu cầu phía Bắc” – trở thành nơi đối đầu, không chỉ bằng đạn pháo mà bằng tiếng nói, bằng ý chí sắt đá.
Ngày 28/5/1955, Đảng ủy khu vực Vĩnh Linh được thành lập. Chưa đầy một tháng sau, ngày 16/6, Chính phủ ra quyết định thành lập Đặc khu Vĩnh Linh – đơn vị hành chính tương đương cấp tỉnh, với sứ mệnh làm “phên dậu” phía Bắc của miền Nam đang bị chia cắt. Trong bộ máy mới ấy, Ban Tuyên huấn – và đặc biệt là bộ phận Truyền thanh – trở thành một cánh quân tiên phong trên mặt trận tư tưởng.
Từ vài chiếc loa công suất nhỏ tại thị trấn Hồ Xá, hệ thống truyền thanh dần hình thành. Đến tháng 7/1955, Đài Truyền thanh Vĩnh Linh chính thức ra đời. Đó là đài địa phương thứ hai của cả nước – sau Hà Nội – nhưng mang một sứ mệnh đặc biệt: phát đi tiếng nói của chính nghĩa, từ bờ Bắc vượt qua sông, chạm đến từng con tim bên bờ Nam.
Trong lịch sử báo chí thế giới, chưa có nơi nào mà phát thanh trở thành một vũ khí mang tính sát thương tinh thần đến vậy. Tại Hiền Lương, những cụm loa 500W, rồi 1.000W được dựng lên, hướng thẳng về phía Nam. Trên cột bê tông cao vút, tiếng nói từ bờ Bắc vang lên về những bản tin, chuyện kể, tiếng gọi từ miền Bắc…
Ngoài ra, Đài còn có một xe lưu động trang bị loa 180W và đại loa 500W, hoạt động linh hoạt dọc bờ sông để binh vận, sẵn sàng "đấu loa" bất kỳ lúc nào. Những trận "đọ loa" giữa hai bờ Bến Hải thường diễn ra trong các đợt trao trả cán bộ ta bị bắt.
Từ năm 1955 đến 1964, phần lớn thời lượng phát thanh của Đài là tiếp âm Đài Tiếng nói Việt Nam. Các chương trình do Đài Truyền thanh Vĩnh Linh tự sản xuất được phát xen kẽ, thu hút đông đảo người dân hai bờ sông và tác động mạnh đến binh lính Sài Gòn. Nhiều chuyên mục như “Vì an ninh Tổ quốc”, “Quân đội Nhân dân”, “Đọc chuyện đêm khuya”, “Sân khấu truyền thanh”… được xây dựng công phu, riêng cho hai đối tượng: miền Bắc và quân đội Sài Gòn ở phía Nam.
Từ năm 1965, khi Mỹ chính thức leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, cuộc chiến âm thanh trên bờ Bắc sông Bến Hải bước vào một cao trào mới. Địch không chỉ ném bom vào hạ tầng truyền dẫn của ta, mà còn dựng lên hẳn một “pháo đài âm thanh” bên bờ Nam – hệ thống phát thanh công suất 10kW với hàng chục loa hướng thẳng ra miền Bắc, phát liên tục những bản tin tuyên truyền phản động, kích động ly gián giữa Nhân dân hai miền.
Trước sự lấn át ấy, Đài Truyền thanh Vĩnh Linh không lùi bước. Đài tăng cường thêm các tổ kỹ thuật lưu động, thiết lập mạng lưới loa công suất lớn 1.000W chạy dọc sông Bến Hải, phối hợp cùng Đài Tiếng nói Việt Nam phản bác từng luận điệu sai trái. Những bản tin, những khúc hát quê hương, những câu chuyện cảm động về chiến sĩ, đồng bào miền Nam vẫn vang lên đều đặn – át cả tiếng máy bay rền trời và cả tiếng loa địch đầy hằn học.
Hệ thống loa cực mạnh của Đài không chỉ nối liền hai miền bằng âm thanh mà còn gieo rắc nỗi sợ hãi trong lòng kẻ thù. Có sĩ quan Ngụy quyền phải viết đơn xin chuyển khỏi vùng Gio Linh vì không chịu nổi tiếng loa “rền vang như đại bác” từ bên kia giới tuyến. Mỗi ngày, người dân bờ Nam vẫn thấp thỏm, chỉ cảm thấy vui mừng khi âm thanh “Đây là Đài Truyền thanh Vĩnh Linh…” cất lên từ bờ Bắc.
Làm báo nơi chiến tuyến khác với mọi khái niệm về nghề báo. Phòng phát thanh nằm sâu trong hầm đất, tường dày hàng mét. Bên trên là lưới loa vươn tới tận vùng giới tuyến – nơi địch luôn rình rập ném bom để “bịt miệng sự thật”. Làm báo trong hoàn cảnh ấy không chỉ là viết, đọc, phát mà là lao động báo chí trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Trong cuộc chiến không tiếng súng giữa hai bờ sông Bến Hải, các phát thanh viên chính là những "chiến sĩ mặt sóng" mang theo từng con chữ, từng dòng tin vượt qua bom đạn, len vào lòng người, thắp lên niềm tin và khơi dậy khát vọng. Họ không chỉ đọc tin mà còn truyền cảm, không chỉ phát âm mà còn truyền lửa. Giọng nói của phát thanh viên đã trở thành nhịp đập của trái tim vùng giới tuyến. Phát thanh viên Nguyễn Thị Kim Nhạn, người mở đầu chương trình bằng câu nói quen thuộc “Đây là Đài Truyền thanh Vĩnh Linh…” –đã từng khiến hàng vạn trái tim bên kia sông rung lên.
Gắn bó với Đài Truyền thanh Vĩnh Linh từ năm 1960 đến ngày giải phóng, bà Nguyễn Thị Xuyến (85 tuổi) vẫn nhớ như in từng ký ức những ngày làm người “nhà đài” ngay giữa tọa độ lửa. Không lên sóng, nhưng là linh hồn sau tiếng nói ấy, bà cùng với các cán bộ, nhân viên khác phụ trách kỹ thuật, đảm bảo mọi hoạt động của Đài diễn ra dù giữa mưa bom bão đạn.
“Ngày đó, chúng tôi sống trong lòng đất nhiều hơn mặt đất. Dây dẫn, loa phóng thanh dài hàng cây số chạy sát bờ sông Bến Hải, cứ bị đánh bom là lại bò ra nối, có khi vừa nối vừa phải nằm rạp xuống tránh mảnh bom đạn”, bà Xuyến nhớ lại, ánh mắt xa xăm như vẫn nhìn thấy từng cuộn dây ngổn ngang trong những chiều pháo giội.
Phòng phát thanh nằm sâu dưới hầm, nhưng hệ thống truyền dẫn thì phải bám sát mặt đất, sát bờ sông – nơi địch luôn canh chừng từng động tĩnh. Thế nên, người kỹ thuật viên phải vừa tinh tường, vừa gan góc, thậm chí có lúc phải trở thành chiến sĩ thực thụ. “Nghe tiếng máy bay là biết loại gì, đánh vào đâu. Có khi vừa phát sóng vừa phải túm lấy khẩu súng bên cạnh, vì địch bổ nhào bất ngờ,” bà kể.
Có những hôm mưa trắng trời, nước tràn hầm, sóng yếu vì dây bị đứt – bà lại cùng đồng đội lội bùn vá dây, mặc cho đất đá trượt lở ngay sau lưng. Họ không có đồng hồ đo sóng hiện đại, chỉ có một chiếc tai nhạy cảm với từng tần số nhiễu, và một trái tim luôn biết lặng lẽ mà bền gan. Ký ức về những đồng đội cũ như Trương Công Vinh, Phạm Trường Hạnh, Nguyên Ngọc, Nguyễn Kỳ, Hoàng Quỳnh… vẫn vẹn nguyên như mới hôm qua. Có những con người không cầm bút, không lên sóng, nhưng chính là người giữ mạch sống cho từng âm thanh vang giữa chiến tuyến.
Trong suốt những năm tháng chiến tranh, nhiều cán bộ Đài đã anh dũng ngã xuống làm rạng rỡ truyền thống nền Báo chí cách mạng Việt Nam. Những cái tên như Ngô Trang – Trưởng Đài, Nguyễn Văn Thí – Bí thư Chi bộ, Nguyễn Biểu, Ngô Thị Diệm, Nguyễn Thị Thảo… đã trở thành một phần máu thịt của Vĩnh Linh. Năm 1969, Nhà nước truy tặng Huân chương Lao động hạng Ba cho tập thể Đài – ghi nhận sự hy sinh lặng lẽ nhưng phi thường ấy… Họ không có bút danh nổi tiếng, không có giải thưởng báo chí quốc gia, nhưng chính họ là những nhà báo của lương tri, của sự can đảm, của chân lý.
Trong Bảo tàng Báo chí Việt Nam hôm nay, chiếc loa 500W từng được dùng tại Hiền Lương vẫn nằm lặng lẽ như một chứng nhân lịch sử. Nhà báo Mai Chí Vũ, cán bộ Bảo tàng Báo chí Việt Nam – người được giao trọng trách đưa chiếc loa từ Bến Hiền Lương, Quảng Trị để trưng bày tại Bảo tàng. “Được sự tạo điều kiện của tỉnh Quảng Trị, chiếc loa đã được vận chuyển thuận lợi về đến Hà Nội. Giờ đây, chiếc loa gần như trở thành trái tim của Bảo tàng Báo chí Việt Nam, đoàn khách tham quan nào đến đây cũng dừng lại để nhìn mỗi vết gỉ, mỗi mảng sơn tróc để hiểu rõ thêm một phần của cuộc chiến chưa từng có tiền lệ – nơi báo chí cất tiếng giữa bão lửa”, nhà báo Mai Chí Vũ chia sẻ.
Với chiều dài hơn 2,04 m, chiều rộng miệng loa 1,64 m. Chiếc loa được phân làm ba đoạn, hai đoạn đầu tạo thành thân loa, có chiều dài 1,41 m, đoạn cuối là vỏ chứa tổ hợp khuếch đại âm thanh có chiều dài 0,72m và chiếc loa này có thể phát âm thanh vang xa đến 10km – vượt qua cả tầm phủ sóng của loa Mỹ-Diệm bên kia bờ. Đây không chỉ là một thiết bị âm thanh, mà là “một nhà báo thầm lặng” – đưa tin, truyền cảm xúc, cổ vũ tinh thần, vạch trần tuyên truyền sai lệch của địch. Trong suốt hơn một thập kỷ, chiếc loa ấy cùng hệ thống ô tô phát thanh di động đã làm tròn vai trò “phóng viên chiến tuyến”, góp phần thay đổi nhận thức của binh sĩ phía Nam, cổ vũ phong trào đấu tranh trong lòng địch.
Đài Truyền thanh Vĩnh Linh hôm nay đã lặng tiếng trong vai trò chiến sự, nhưng âm vang của nó chưa từng ngừng lại. Đó là nơi báo chí trở thành tiền tuyến, nơi từng con chữ, từng câu nói mang sức mạnh của niềm tin mãnh liệt về một Việt Nam hòa bình, giữa trùng trùng bom đạn, nơi chỉ có niềm tin, lòng quả cảm và trái tim của những người dấn thân.