Theo dõi Báo Thanh tra trên
Thứ ba, 21/05/2013 - 09:31
(Thanh tra)- Bà Nguyễn Thị Chuyện (thôn Chi Long, xã Long Châu, huyện Yên Phong) khiếu nại (KN) liên quan đến việc đền bù thu hồi đất để xây dựng Khu công nghiệp (KCN) Yên Phong.
Thực hiện Kế hoạch 1130, ngày 28/11/2012, Tổ công tác của Thanh tra Chính phủ dưới sự chỉ đạo của Phó Tổng Thanh tra Nguyễn Văn Thanh cùng UBND tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức cuộc họp lên phương án giải quyết dứt điểm vụ việc. Mới đây, bà Chuyện đề nghị xin rút toàn bộ số đơn KN đã gửi các cơ quan từ địa phương tới Trung ương và cam kết xin chấm dứt mọi khiếu kiện liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ thu hồi đất…
Ngày 15/12/2010, bà Chuyện (được Nguyễn Văn Đáo là bố chồng ủy quyền) có đơn đề nghị xem xét việc chi trả bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất của gia đình để xây dựng KCN Yên Phong (đợt 1, đợt 2 và đợt 6) với 2 nội dung: Đề nghị chi trả 30% chi phí cải tạo đất trên diện tích 1.871m2 đất tạm giao tại khu vực Chuôm Chín (đợt 1 và 2); đề nghị xem xét diện tích của gia đình ở xứ đồng số 5 có diện tích 642 m2 (trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (SDĐ) là 2 thửa ruộng có diện tích 474m2 + 127m2 = 601m2, còn thiếu 41m2) đã thu hồi và san lấp mặt bằng nhưng gia đình đến nay chưa nhận được tiền bồi thường, hỗ trợ (đợt 6).
Thực hiện Quyết định thu hồi đất số 2069 ngày 17/10/2005 của UBND tỉnh Bắc Ninh, Chủ tịch UBND tỉnh giao cho Cty Đầu tư Phát triển hạ tầng Viglacera là chủ đầu tư xây dựng KCN I Yên Phong, trong đó có thu hồi 1.871m2 tại thửa số 13, tờ bản đồ số 8.
Về nguồn gốc, đây là đất mặt nước chuyên dùng nằm trên địa bàn thôn Chi Long do UBND xã Long Châu quản lý. Năm 2000, thôn Chi Long giao cho Tổ Văn nghệ (phục vụ tang lễ) của thôn sử dụng để gây quỹ, tạo nguồn kinh phí hoạt động. Tổ Văn nghệ đã giao cho gia đình bà Chuyện thuê thầu, nhưng việc thuê thầu này không có giấy tờ và cũng không được thôn, xã xác nhận.
Khi diện tích này nằm trong diện bị thu hồi, phương án bồi thường, hỗ trợ đứng tên người SDĐ là thôn Chi Long với số tiền bồi thường hơn 72 triệu đồng (tròn số) bao gồm bồi thường về hoa màu là hơn 13 triệu đồng (chi trả cho hộ gia đình, cá nhân có hoa màu trên đất chuyên dùng); hỗ trợ tính bằng 30% giá đất nông nghiệp là gần 18 triệu đồng (chi trả cho thôn Chi Long) và tính bằng 70% giá đất nông nghiệp là 41,5 triệu đồng (chi trả cho ngân sách xã Long Châu).
Ngày 6/6/2008, UBND xã Long Châu sau khi xem xét đơn, với sự thống nhất của gia đình bà Chuyện đã chi trả tiền bồi thường hoa màu trên đất cho gia đình bà Chuyện là hơn 13 triệu đồng và gia đình đã ký nhận. Như vậy, việc bà Chuyện đề nghị theo như nội dung 1 là không có cơ sở, vì gia đình đã nhận tiền và thống nhất tại biên bản nêu trên.
Về nội dung 2, Tổ công tác 1130 nhận thấy, việc bà Chuyện kiến nghị gia đình chưa nhận tiền đền bù là có thật. Bởi, ngày 4/7/2008, Cty Đầu tư Phát triển hạ tầng Viglacera khi trả tiền đền bù, hỗ trợ đã chi trả cho bà Nguyễn Thị Hiên (con gái ông Đáo đã đi lấy chồng và không được ủy quyền) số tiền hơn 37 triệu đồng cho 474m2 diện tích đất nông nghiệp (ông Đáo đứng tên SDĐ). Tiếp đến, ngày 12/9/2008, Cty tiếp tục chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng cho 169m2 nông nghiệp và 42m2 bổ sung (ông Đáo đứng tên SDĐ) với tổng là hơn 13 triệu đồng, nhưng người nhận tiền lần này là ông Nguyễn Văn Hòa (Kế toán Hợp tác xã Chi Long)…
Sửa sai, UBND xã Long Châu đã yêu cầu ông Hòa, bà Hiên trả lại số tiền đã nhận cho gia đình ông Đáo, nhưng ông Đáo không nhận. Sau đó, ông Đáo viết giấy ủy quyền cho con dâu là bà Chuyện. Tuy nhiên, giấy ủy quyền được thôn và xã xác nhận ngày 10/9/2010 lại không ghi ngày, tháng, năm, có nội dung: “… Tôi có giấy chứng nhận quyền SDĐ mang tên hộ ông Nguyễn Văn Đáo, số N 478718 của UBND huyện Yên Phong cấp ngày 4/3/1999. Nay tôi ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Chuyện, có hộ khẩu… được sử dụng và hưởng quyền lợi toàn bộ diện tích đất của gia đình…”.
Theo quy định của pháp luật thì giấy ủy quyền này không hợp lệ, vì trong tổng diện tích đất nông nghiệp được cấp “sổ đỏ” nêu trên còn có cả diện tích đất nông nghiệp của các thành viên trong gia đình ông Đáo (vợ và các con) theo tiêu chuẩn giao ruộng năm 1993. Các thành viên trong gia đình ông Đáo không ủy quyền cho bà Chuyện tại giấy ủy quyền nêu trên, nhưng bà Chuyện vẫn đi KN nội dung trên.
Tổ công tác 1130 và UBND tỉnh Bắc Ninh đã thống nhất: Vụ việc đang thuộc thẩm quyền giải quyết của địa phương, Tổ công tác đề nghị UBND tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo UBND huyện Yên Phong xem xét, giải quyết lại vụ việc theo quy định. Việc ông Đáo ủy quyền cho bà Chuyện với nội dung nói trên và được UBND huyện ban hành quyết định giải quyết KN theo giấy ủy quyền trên là chưa bảo đảm với quy định của pháp luật. Hơn nữa, việc bà Hiên - con gái ông Đáo là người có quyền lợi liên quan đến đất bị thu hồi và là người nhận tiền bồi thường thì chưa được xác minh làm rõ.
Theo đó, ngày 10/4/2013, Chủ tịch UBND huyện Yên Phong đã có quyết định thành lập đoàn công tác về việc giải quyết đơn của bà Chuyện…
Trao đổi với PV, bà Trịnh Thị Hường, Phó Chánh Thanh tra huyện Yên Phong (Trưởng đoàn công tác) cho biết, quá trình làm việc, với những giải thích có tình, có lý, đúng pháp luật… bà Chuyện đã nhận thức tính đúng, sai của vụ việc nên xin rút toàn bộ đơn KN và đồng ý với quan điểm của Tổ công tác 1130 đã thống nhất với UBND tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 4/5/2013, Chủ tịch UBND huyện Yên Phong đã ban hành quyết định về việc đình chỉ giải quyết đơn KN của bà Chuyện, chấm dứt vụ khiếu kiện kéo dài gần 4 năm qua.
Đinh Lê
Ý kiến bình luận:
Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!
(Thanh tra) - Công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực đất đai còn nhiều sai sót, chậm được xử lý; việc công khai, minh bạch trong quy hoạch, bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư, trong thực hiện quản lý, điều hành một số lĩnh vực còn chưa đầy đủ; công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng còn một số hạn chế nhất định, chưa đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng, tố cáo…
Hương Trà
07:00 14/12/2024(Thanh tra) - Trong năm 2024, qua công tác xác minh, Thanh tra tỉnh Khánh Hòa đã ban hành kết luận đối với 57 trường hợp (1 trường hợp không tiến hành xác minh do đã xin nghỉ việc), trong đó có 7 trường hợp kê khai tài sản, thu nhập (TSTN) đúng và đầy đủ, 19 trường hợp có thiếu sót trong việc kê khai TSTN, 31 trường hợp vi phạm Điều 33 và Điều 35 Luật Phòng, chống tham nhũng (có 1 trường hợp xử lý theo Điều 51 Luật Phòng, chống tham nhũng).
Lâm Ánh
06:30 14/12/2024Thu Huyền
06:00 14/12/2024Trần Quý
21:00 13/12/2024Phương Anh
19:11 13/12/2024Thái Hải
16:35 13/12/2024Lê Hữu Chính
TC
Liên Hương
Nhóm PV
Văn Thanh
Ngọc Tuấn
Nhật Minh
Cao Sơn
Hương Trà
Lâm Ánh
Thu Huyền
Trần Quý