Ca khúc: Tự hào người làm báo Thanh tra

Theo dõi Báo Thanh tra trên

Doanh nghiệp tố tòa xét xử sai

Thứ ba, 07/05/2013 - 08:50

(Thanh tra)- Thời gian gần đây, Cty Cổ phần Đầu tư kinh doanh Bất động sản (Cty BĐS) có trụ sở tại số 108 Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, Hải Phòng liên tục có đơn gửi các cơ quan chức năng từ TƯ đến địa phương về việc kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm ngày 22/01/2013 của TAND huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

Cty BĐS cho rằng, khi giải quyết và xét xử vụ án kinh doanh thương mại “tranh chấp hợp đồng xây kè và san lấp mặt bằng” giữa ông Lưu Văn Tốt - nguyên đơn và Cty BĐS - bị đơn,  TAND huyện Vân Đồn đã vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng trong việc chứng minh và thu thập chứng cứ, kết luận trong bản án sơ thẩm hoàn toàn không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án khiến Cty bị thiệt hại trên 10 tỷ đồng.

Sự việc được thể hiện qua 5 nội dung sau:

Thứ nhất: Căn cứ vào hợp đồng không giá trị.

Ngày 24/9/2002, Cty BĐS và ông Lưu Văn Tốt ký Hợp đồng giao nhận thầu xây lắp công trình xây dựng số 26/HĐ-BĐS. Tại Điều 2 Hợp đồng qui định: “II.1 Hai bên thống nhất đơn giá 9.000 đồng/m3 cát san lấp hoàn thành đối với 9.000m3 thi công đầu tiên; đối với khối lượng còn lại đã thi công và khối lượng sẽ thi công tiếp đơn giá thanh toán cho 1m3 san lấp hoàn thành là 25.000 đồng/m3; đối với kè đá chắn đất vữa XM mác 75 đơn giá là 280.000 đồng/m3. II.2 Giá trị hợp đồng: Được tính theo khối lượng nghiệm thu thực tế và đơn giá được ghi tại mục II.1 Điều II hợp đồng này”.

Sau đó, hai bên ký thêm Hợp đồng giao nhận thầu xây lắp công trình xây dựng (nội bộ) đề ngày 25/9/2002, trong đó nêu rõ: “Giá trị hợp đồng được xác định theo phương thức khoán gọn bằng 80% so với giá trị quyết toán được duyệt, tạm tính = 80% x 10.000.000.000 đồng = 8.000.000.000 đồng (tám tỷ đồng)”.

Sở dĩ, hai bên ký kết hợp đồng giao nhận thầu đề ngày 25/9/2002, là do: Hai bên thỏa thuận lại giá trị thanh toán. Theo đó, ông Lưu Văn Tốt chỉ được nhận (khoán gọn) 80% của giá trị quyết toán được duyệt (giá trị quyết toán tính bằng khối lượng thực tế được hai bên nghiệm thu nhân với đơn giá đã thỏa thuận tại Hợp đồng giao nhận thầu 26/HĐ-BĐS ngày 24/9/2002). Ngoài ra, ông Lưu Văn Tốt đề xuất với Cty BĐS để nhằm ước lượng tổng giá trị công trình, từ đó có cơ sở để huy động các đối tác và tài chính để thực hiện tiếp Hợp đồng giao nhận thầu ký ngày 24/9/2002. Do chỉ là ước lượng nên Hợp đồng (nội bộ) đề ngày 25/9/2002 mới có từ “tạm tính” trong hợp đồng.

Nếu đặt Hợp đồng giao nhận thầu xây lắp công trình xây dựng (nội bộ) đề ngày 25/9/2002 độc lập với Hợp đồng giao nhận thầu xây lắp công trình xây dựng số 26/HĐ-BĐS ngày 24/9/2002, ta có thể dễ dàng nhận thấy Hợp đồng giao nhận thầu xây lắp công trình xây dựng (nội bộ) đề ngày 25/9/2002 là hoàn toàn vô hiệu do không thể tính toán được giá trị để thanh toán của hợp đồng. Điều 2 Hợp đồng ngày 25/9/2002 quy định “giá trị hợp đồng bằng 80% giá trị quyết toán được duyệt”. Giá trị quyết toán được duyệt chỉ có thể xác định được khi ít nhất đủ hai điều kiện sau: Điều kiện 1: Hai bên đã tiến hành nghiệm thu khối lượng và chất lượng công trình; điều kiện 2: Hai bên đã xác định giá trị quyết toán hợp đồng. Tuy nhiên, trong Hợp đồng ngày 25/9/2002 không có quy định về đơn giá hoặc phương thức tính giá trị hợp đồng để xác định giá trị quyết toán. Do vậy, không thể xác định được giá trị quyết toán.

Từ đó cho thấy, chỉ Hợp đồng ký ngày 24/9/2002 là có hiệu lực pháp luật, nhưng TAND huyện Vân Đồn lại căn cứ vào Hợp đồng ký ngày 25/9/2002 để xét xử. Nếu bản án có hiệu lực sẽ gây thiệt hại cho Cty BĐS trên 10 tỷ đồng.

Thứ hai: Vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục giám định.

Cty BĐS không biết và không được TAND huyện Vân Đồn tống đạt quyết định trưng cầu giám định, chỉ khi đến phiên tòa Cty mới biết Tòa đã trưng cầu giám định. Do đó, trong toàn bộ thủ tục giám định, Cty không được thực hiện quyền giám sát và không thể tham gia cũng như có ý kiến với kết luận giám định và thực hiện quyền yêu cầu giám định lại theo quy định tại khoản 3, Điều 90 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Hơn nữa, đơn vị được TAND huyện Vân Đồn mời giám định là Cty Cổ phần (CP) Trung Nguyễn lại không đủ điều kiện giám định do không có ngành nghề kinh doanh và người có chuyên môn để thực hiện công việc giám định.

Cty BĐS cho rằng, khi đánh giá chứng cứ là kết quả giám định của Cty CP Trung Nguyễn, TAND huyện Vân Đồn đã không xem xét đến các yêu cầu về hình thức và nội dung của hồ sơ như: Phải tuân theo quy định về yêu cầu đối với nghiệp vụ công tác thẩm tra, thẩm định, các tiêu chuẩn, quy phạm xây dựng… tính thiếu chính xác về khoa học, toán học; chênh lệch trong kết quả giữa bản đồ đo vẽ và bảng tính toán, thiếu dữ kiện trong công thức tính toán của đơn vị giám định. Đáng nói, Cty CP Trung Nguyễn tiến hành giám định nhưng không ra kết luận giám định là trái với các quy định của pháp luật về giám định tư pháp; không bảo đảm tính liên quan và chính xác của chứng cứ, thu thập chứng cứ… là không tuân theo thủ tục được quy định tại Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Thứ ba: Thanh toán tiền thi công bằng quyền sử dụng đất.

Bản án số 01/2013/KDTM-ST, ngày 22/1/2013 của TAND huyện Vân Đồn nhận định: Việc thanh toán tiền (989.800.000 đồng) cho ông Tốt bằng giá trị quyền sử dụng đất khi Cty BĐS chưa có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vi phạm quy định của pháp luật nên không chấp nhận phần thanh toán bằng quyền sử dụng đất”.

Cty BĐS cho rằng, căn cứ vào Quyết định 78/QĐ/UB, ngày 20/3/1994 của UBND huyện Cẩm Phả: (giao cho Cty BĐS quyền sử dụng đất lâu dài với diện tích là 171.000m2; trong đó, đất tôn tạo 71.000m2 bao gồm hai khu đất nằm phía Đông + Tây theo trục đường ra cảng và diện tích đất tôn tạo xung quanh chân núi Rồng 1+2, thì Cty BĐS được quyền tổ chức thi công, san lấp mặt bằng theo đúng bản đồ được duyệt, được quyền sử dụng lâu dài hoặc nhượng bán, kinh doanh giá trị tôn tạo mặt bằng.

Do tại Điều 6 của Hợp đồng giao nhận thầu quy định việc Cty có thể thanh toán bằng quỹ đất nên ông Lưu Văn Tốt đã chấp nhận thanh toán bằng việc chuyển giá trị thanh toán 646.800.000 đồng từ Hợp đồng giao nhận thầu thành tiền đặt cọc lô đất D27 của dự án.

Tuy nhiên, sau đó, ngày 22/6/2011, ông Lưu Văn Tốt đã nhận thanh toán lại trực tiếp bằng tiền mặt từ Cty BĐS toàn bộ giá trị đặt cọc lô đất trên bằng 646.800.000 đồng theo Phiếu chi số 12/6. Còn số tiền đặt cọc lô đất số D25 là của bà Nguyễn Thị Ánh Tuyết nộp vào với số tiền 339.000.000 đồng thì ông Tốt đã lĩnh tiền tạm ứng tiền phun hút cát ra 340.000.000 đồng theo Phiếu chi số 21/9 ngày 17/9/2004, chứ ông Tốt không có liên quan gì tới việc thanh toán tiền thi công bằng quyền sử dụng đất của lô đất  này. Toàn bộ chứng từ, tài liệu liên quan đến thanh toán tiền đặt cọc hai lô đất D25 và D27 đã được Cty BĐS gửi tới Tòa.

Như vậy, ông Lưu Văn Tốt đã không nhận thanh toán bằng tiền đặt cọc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà nhận thanh toán hoàn toàn bằng tiền mặt số tiền 989.800.000 đồng. Tuy nhiên, Toà án không xác minh các chứng cứ để làm rõ mà chỉ nghe ông Tốt để phán quyết.

Thứ tư: Không chứng minh được vẫn bắt bồi thường.

Cty BĐS cho rằng, phần bản án quyết định Cty phải bồi thường cho ông Lưu Văn Tốt do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền 3.583.668 đồng, là xử theo “cảm tính”. Vì, theo quy định tại Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại thì bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra.

Tại đơn khởi kiện cũng như tại phiên tòa, ông Lưu Văn Tốt không chứng minh được tổn thất của mình mà chỉ đơn thuần đưa ra mức lãi suất 0,75%/tháng. TAND huyện Vân Đồn đã không căn cứ vào các quy định của pháp luật mà chỉ cho là “lãi suất yêu cầu là 0,75% là phù hợp” để chấp thuận, thể hiện mức độ “cảm tính” cao độ của TAND huyện Vân Đồn.

Thứ năm: Những sai sót (về số liệu) không đáng có.

Tại trang 4 của Bản án số 01/2013/KDTM-ST ngày 22/1/2013 của TAND huyện Vân Đồn có nêu: “Cty đã chỉ tạm ứng cho ông Tốt số tiền là 2.970.290.000 đồng, trong đó Cty trực tiếp chi trả là 2.764.090.000 đồng tiền mặt; 986.800.000 đồng bằng giá trị quyền sử dụng đất và số tiền ông Tốt đã nhận trước ngày 24/9/2002 của ông Phan, ông Trụ và ông Cầu… đến nay Cty đã trả cho ông Tốt vượt quá là 880.996.010 đồng…” .

Cty BĐS cho rằng, theo Sổ chi tiết TK 141 (2) ngày 31/12/2008 mà Cty đã cung cấp cho Tòa án và ý kiến của Cty trong vụ án này đều khẳng định số tiền mà ông Tốt đã tạm ứng từ Cty là 3.741.090.000 đồng. Ngoài ra, ông Tốt còn ứng lương tại Ban đại diện của Cty, tiền ông Tốt nhận của ông Phan, ông Trụ đã vượt quá số tiền là 895.996.010 đồng.

Mặt khác, số liệu tính toán trên cũng không chính xác. Bởi, nếu chỉ cộng riêng tiền mặt và giá trị quyền sử dụng đất mà chưa tính đến số tiền ông Tốt đã nhận từ ông Phan, ông Trụ và ông Cầu thì số tiền Cty đã ứng cho ông Tốt là 3.741.090.000 đồng chứ không phải là 2.970.290.000 đồng như Tòa đã xác định.

Từ những phân tích trên, Cty BĐS cho rằng, việc chứng minh và thu thập chứng cứ trong vụ án, TAND huyện Vân Đồn đã không tuân thủ theo quy định tại Chương VII Bộ luật Tố tụng Dân sự. Chưa hết, quá trình xét xử vụ án tại phiên tòa sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.

Chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp tới bạn đọc khi có thông tin từ các cơ quan chức năng.


Đông Quang

Ý kiến bình luận:

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!

Tin cùng chuyên mục

Tin mới nhất

Xem thêm