Chú trọng khai thác thị trường có khả năng chi trả cao

Thứ trưởng Bộ VHTTDL Lê Quang Tùng cho biết, Việt Nam có vị thế đặc biệt về du lịch, đứng thứ 32 toàn cầu về số lượng và sự hấp dẫn của tài nguyên thiên nhiên, văn hóa với 8 di sản thế giới được UNESCO công nhận. Tạp chí du lịch nổi tiếng Lonely Planet bình chọn TP Hồ Chí Minh vào top điểm đến hấp dẫn nhất châu Á năm 2018. Tạp chí du lịch Travel & Leisure của Mỹ chọn Hội An vào top 15 thành phố hấp dẫn nhất thế giới 2018. Hà Nội đứng vị trí 12/25 điểm đến hàng đầu thế giới năm 2018 theo công bố của TripAdvisor và Cầu Vàng nằm trên lòng bàn tay khổng lồ ở Đà Nẵng là 1 trong 100 điểm đến tuyệt vời nhất thế giới năm 2018 do Tạp chí Time của Mỹ bình chọn…

Thứ trưởng Bộ VHTTDL cho rằng, để du lịch thực sự phát huy vai trò là một ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia, phát huy đúng vai trò ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp, còn có rất nhiều việc cần tiếp tục làm, tiếp tục cải thiện, cần đầu tư mạnh mẽ, tập trung với quyết tâm cao của tất cả các bên để giải quyết các vấn đề cả trước mắt và lâu dài.

Theo các số liệu thống kê và đánh giá của chuyên gia cho thấy, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đang tăng trưởng nhanh, nhưng năm 2018 tổng số du khách quốc tế vẫn thấp so với một số nước trong khu vực như Thái Lan (38 triệu), Malaysia (25 triệu), Singapore (18,5 triệu), Indonesia (15,8 triệu).

Chi tiêu của khách còn khiêm tốn, tỷ trọng của các thị trường chi tiêu cao có xu hướng giảm dần, từ năm 2015. Khách Bắc Mỹ từ 7,6 đến 5,8%, châu Âu 14,6% xuống 13,1% trong khi khách châu Á tăng mạnh.

Các thị trường chi tiêu cao như golf vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với các nước trong khu vực. Khách quốc tế đến Việt Nam lưu trú dài ngày hơn nhưng chi tiêu ít hơn so với các nước trong khu vực, trung bình 96 USD/khách/ngày, trong khi đó ở Singapore là 330 USD/khách/ngày.

Vì thế, theo Thứ trưởng Lê Quang Tùng, trong thời gian tới, ngành Du lịch cần chú trọng khai thác những thị trường có khả năng chi trả cao như Nhật Bản, Bắc Mỹ, Bắc Âu, Trung Quốc, Hàn Quốc... Đồng thời, thu hút khách ở những trải nghiệm văn hoá cùng với việc đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm, cần thúc đẩy các sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng, công tác kết hợp du lịch cao cấp.

Tạo điều kiện visa linh hoạt, thuận lợi

Cùng với đó, tạo điều kiện visa thuận lợi, phát triển du lịch tàu biển, tập trung khả năng kết nối hàng không, nâng cao năng lực vận tải hành khách của các hãng; quản lý điểm đến, môi trường an toàn, an ninh cho du khách; chú trọng đào tạo kỹ năng ngoại ngữ, chuyên nghiệp cho nhân lực ngành Du lịch từ cấp thấp đến quản lý cao cấp.

Ông Phạm Hà, Giám đốc Công ty du lịch Sang Trọng nhận định: Rào cản lớn nhất hiện nay của du lịch Việt Nam là chính sách visa thiếu cởi mở, không nói là quá khắt khe.

“Tôi đề nghị nâng số ngày được miễn cho khách từ 15 ngày lên 30 ngày và được ra vào nhiều lần. Đồng thời tôi kiến nghị chúng ta bỏ visa càng nhiều nước càng tốt. Trong khu vực, Indonesia, đã bỏ visa cho công dân 169 quốc gia, vùng lãnh thổ. Chúng ta, một đất nước hoà bình, thân thiện nhưng lại không chịu bỏ visa để thu hút khách đến chỉ vì lý do có đi có lại và an ninh an toàn, lợi ích từ việc thu phí visa”, ông Hà nói.

Đồng quan điểm, Tổng Giám đốc Vietravel Nguyễn Quốc Kỳ cũng kiến nghị áp dụng chính sách visa linh hoạt. Ông cho rằng visa linh hoạt có thể cấp theo theo thị trường khách đông - vắng theo mùa, theo sự kiện lớn của Việt Nam như giải đua xe F1, SEA Games, Festival Huế, Vesak...

Mở rộng chính sách miễn thị thực cho các nước đến Việt Nam

Tại Hội thảo, các chuyên gia du lịch cho rằng, Việt Nam có 4 điểm mạnh về du lịch đó là: Văn hoá độc đáo, cảnh quan thiên nhiên hàng đầu khu vực, ẩm thực số một thế giới và con người thân thiện,  khách sẽ lựa chọn Việt Nam giữa rất nhiều điểm đến vì chúng ta có nhiều lợi thế, đặc biệt là có nhiều bãi biển đẹp, nắng ấm quanh năm. Vì thế, cần phải quy hoạch lại các điểm đến, giảm tải cho các điểm đến nổi tiếng như vịnh Hạ Long, Quảng Ninh, chọn lọc khách cao cấp để tăng thu cho các điểm đến này và định vị được thương hiệu điểm đến quốc gia.

Từ trước tới nay chúng ta vẫn định vị là điểm đến văn hoá, nếu vậy khách chỉ đến một lần. Nếu định vị Việt Nam là điểm đến du lịch biển, khách sẽ trở lại để thử những trải nghiệm mới và chúng ta cần tạo điều kiện cho khách trở lại thuận lợi hơn.

Vấn đề quá tải ở các cảng hàng không, chưa có văn phòng đại diện du lịch nào ở nước ngoài, công tác quảng bá xúc tiến còn nhiều hạn chế, đầu tư cho công tác xúc tiến du lịch quá ít, sản phẩm du lịch thiếu đặc trưng, chưa khai thác được các giá trị văn hóa cộng đồng, văn hóa địa phương, chưa có các điểm hoàn thuế tại chỗ… được các đại biểu đề cập và thảo luận tại Hội thảo.

Trong đó, đáng chú ý là các kiến nghị tiếp tục mở rộng chính sách miễn thị thực cho các nước đến Việt Nam vì đây là vấn đề tiên quyết nhằm đưa du lịch Việt Nam phát triển.

Tiếp theo là vấn đề phát triển nguồn nhân lực du lịch với việc mở rộng mô hình tại doanh nghiệp, đào tạo nguồn nhân sự chất lượng cao. Khối kinh tế tư nhân cũng đề xuất việc mở văn phòng xúc tiến du lịch ở nước ngoài tại Anh và Đức. Khối này cam kết trong 4 năm đầu các doanh nghiệp tư nhân sẽ tự lo hoạt động của các văn phòng này nếu được Chính phủ đồng ý. Việc cấp phép thêm các hãng hàng không mới cũng được nhiều doanh nghiệp đề xuất để nâng cao hạ tầng ngành hàng không.

Bảo Anh