Theo Bộ Y tế, sốc nhiệt là bệnh lý đặc trưng bởi tình trạng nhiệt độ cơ thể trên 40 độ C và kèm theo rối loạn chức năng thần kinh (rối loạn ý thức, hôn mê, co giật). Nguyên nhân chính của sốc nhiệt là do tốc độ sinh nhiệt vượt qua khả năng của cơ thể đào thải nhiệt.

Sốc nhiệt được chia thành 2 nhóm: Sốc nhiệt kinh điển và sốc nhiệt do gắng sức, hai thể này khác nhau về cơ chế nhưng biểu hiện lâm sàng giống nhau. Sốc nhiệt kinh điển hay gặp ở người già, cơ thể suy nhược, trẻ em, người có bệnh tim mạch, bệnh thần kinh, hay các rối loạn nội tiết.

Sốc nhiệt do gắng sức hay gặp ở những người trẻ, khỏe mạnh với hệ điều hòa nhiệt độ bình thường. Thường phơi nhiễm với nhiệt độ môi trường tăng cao và đồng thời do sự sinh nhiệt lúc thể dục, gắng sức.

Người bị sốc nhiệt thường có triệu chứng nhiệt độ cơ thể trên 40 độ C, da nóng và khô, có các biểu hiện: Mệt, đau đầu, khó thở, đỏ mặt, mửa, ỉa chảy, hôn mê, suy hô hấp, hạ huyết áp, rối loạn hô hấp (suy hô hấp, khó thở), rối loạn thần kinh trung ương (động kinh, hôn mê), suy gan, suy thận.

Sốc nhiệt có thể gây biến chứng cho tất cả các cơ quan như tim mạch (người bị sốc nhiệt có nhịp tim nhanh, tụt huyết áp, thủng cơ tim), phổi, phù phổi, viêm phổi, kiềm hô hấp, thận. Tiêu cơ vân, suy thận cấp, hoại tử ống thận cấp, điện giải. Hạ kali máu, tăng kali máu, tăng natri máu, hạ đường huyết, tăng uric máu, thần kinh. Liệt nửa người, hôn mê, mất trí nhớ, tính cách thay đổi.

Theo Bộ Y tế, người bị sốc nhiệt có tiên lượng xấu tỷ lệ với thời gian từ lúc tăng thân nhiệt tới lúc được điều trị. Nếu cấp cứu muộn, để hôn mê trên 4 giờ thì dấu hiệu tiên lượng xấu như hoại tử tế bào gan, rối loạn đông máu, rối loạn hô hấp, rối loạn thần kinh, suy gan, suy thận…

Khả năng cứu sống bệnh nhân tùy thuộc thời gian từ lúc tăng thân nhiệt đến khi được điều trị. Nếu được phát hiện sớm, bù dịch đầy đủ, điều trị tích cực các biến chứng, bệnh nhân trên 90% sống sót. Tình trạng sẽ xấu khi bệnh nhân trên 42,2 độ C, hôn mê, hoại tử tế bào gan, rối loạn đông máu, tăng thân nhiệt kéo dài, suy thận, tăng kali máu...

Bệnh nhân cần được điều trị ngay bằng cách hạ thân nhiệt và hỗ trợ chức năng các cơ quan. Để làm lạnh bên ngoài, ngâm bệnh nhân trong nước đá song có thể gây co mạch ngoại vi, rét run, hạ thân nhiệt quá, khó theo dõi các chức năng sống. 

Ngoài ra, có thể đặt các túi chườm đá vào vùng bẹn, nách, cổ hoặc sử dụng chăn làm lạnh... Vì thế, bác sĩ khuyến khích hạ thân nhiệt cho bệnh nhân bằng chườm nước mát, dội nước mát vào người, ngâm trong nước mát. Đưa bệnh nhân đến bệnh viện, có thể vừa vận chuyển vừa hạ thân nhiệt.

Bệnh nhân vào viện sẽ được bù nước và điện giải bằng cách làm lạnh càng nhanh càng tốt để hạ thân nhiệt với tốc độ 0,2 độ C một phút, nhiệt độ trực tràng xuống 38 độ C, nhiệt độ da 30-33 độ C. 

Tuy nhiên, nếu hạ thân nhiệt thấp hơn lại gây tác dụng phụ. Bệnh nhân sau đó sẽ được ổn định chức năng hô hấp tuần hoàn, thở máy khi có suy hô hấp, bù dịch theo áp lực tĩnh mạch trung tâm, sử dụng các thuốc nâng huyết áp nếu cần, tránh thuốc kích thích. Bệnh nhân có biểu hiện tiêu cơ vân sẽ phải bù dịch và lợi tiểu. Trường hợp bị suy đa tạng phải lọc máu liên tục, lọc gan, tuần hoàn ngoài cơ thể.

Sốc nhiệt hoàn toàn có thể phòng tránh được, hiểu biết về những rối loạn do sốc nhiệt giúp con người giảm được tỷ lệ bệnh tật và tỷ lệ tử vong. 

Bộ Y tế khuyến cáo, mỗi người cần phân loại các đối tượng có nguy cơ để có các biện pháp phòng, chống và kế hoạch rèn luyện phù hợp; khuyến khích các tổ chức đoàn thể tổ chức các chương trình phổ biến rộng rãi về dấu hiệu, triệu chứng và nguy cơ của bệnh để chẩn đoán và điều trị sớm; mỗi cá nhân đều phải tự rèn luyện để thích nghi với nóng, lập thời gian luyện tập thể lực vào lúc mát trong ngày, giảm bớt vận động thể lực vào lúc thời tiết nóng; uống đủ nước và muối; mặc quần áo rộng, nhẹ, thoáng và sáng màu.

Phương Anh