Bộ sưu tập đàn đá Hòa Nam được tìm thấy tại xã Hòa Nam vào năm 2003 nhưng vì chủ nhân không biết đó là đàn đá nên đã tặng nó cho một số người quen tại Vũng Tàu và Bảo Lộc (Lâm Đồng). Năm 2008, 30 thanh đàn đá “lưu lạc” đã được cán bộ Bảo tàng Lâm Đồng tìm lại và đưa về lưu giữ tại Bảo tàng. Gần đây nhất, 16 thanh còn lại trong số 47 thanh đàn đá của bộ sưu tập (1 thanh bị gãy vỡ chưa tìm được) cũng đã được ông Phạm Hữu Thọ mang từ Vũng Tàu về Lâm Đồng.

Những thanh “đá kêu”

Đến lúc này, không còn nghi ngờ gì nữa khi nói rằng, Lâm Đồng – Nam Tây Nguyên – chính là một trong số ít cái nôi của đàn đá cổ Việt Nam. Trên vùng đất Nam Tây Nguyên này, không chỉ là nơi đầu tiên bộ đàn đá cổ nhất của loài người được phát hiện bởi một nhà dân tộc học người Pháp mà số lượng đàn đá cổ được phát hiện ở đây từ trước đến nay cũng chiếm số lượng cao nhất nước.

Tuy nhiên, điều đáng tiếc là cho đến lúc này, vấn đề công nhận là báu vật quốc gia cho một số sưu tập đàn đá cổ của Lâm Đồng vẫn chưa được thực hiện. Cùng với bộ đàn đá cổ xưa nhất của loài người – bộ đàn đá Nduliêng Krat (tên một ngôi làng ven sông Krông Nô trước đây thuộc đất Lâm Đồng, nay thuộc tỉnh Đắk Nông) – được GS người Pháp Georges Condominas phát hiện năm 1949, đến nay, nhiều bộ đàn đá khác cũng đã được tìm thấy và hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Lâm Đồng.

Nếu không kể bộ Nduliêng Krat đang được trưng bày tại Bảo tàng Con người ở Paris, thì vài năm gần đây, trong các bộ sưu tập đàn đá cổ ở Lâm Đồng, đáng chú ý nhất là hai sưu tập đàn đá Hòa Nam gồm 47 thanh phát hiện năm 2003 và bộ đàn đá Liên Đầm được phát hiện vào năm 2008.

Với bộ đàn đá Hòa Nam, như trên đã nói, vì chủ nhân không biết đó là đàn đá nên bộ sưu tập này đã được chuyển xuống Vũng Tàu một ít, phần còn lại được chuyển cho một người dân ở Bảo Lộc. Năm 2008, họa sỹ Lương Nguyên Minh, cán bộ của Bảo tàng Lâm Đồng, hay tin về “số phận” không mấy sáng sủa của sưu tập đàn đá Hòa Nam nên đã bỏ ra không ít công sức đi tìm lại nó và mang về cho Bảo tàng.

Với sưu tập đàn đá Liên Đầm được phát hiện vào cuối năm 2008, theo Phó Giám đốc Bảo tàng Lâm Đồng Đoàn Bích Ngọ: “Tuy đã có một số thanh đã được đưa lên khỏi mặt đất vào thời điểm vừa mới phát hiện, nhưng sưu tập đàn đá Liên Đầm là sưu tập đàn đá duy nhất ở Lâm Đồng còn giữ được tính nguyên vẹn của nó”. Đặc biệt, theo TS Bùi Chí Hoàng (Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ thuộc Viện Phát triển bền vững vùng Đông Nam Bộ) thì “Tập hợp các thanh đá Liên Đầm có nhiều đặc điểm chung cho thấy, nó được chế tác trong cùng một thời điểm và có lẽ từ một nhóm nghệ nhân nhất định. Hiện tượng này ít xảy ra khi khảo sát các bộ đàn đá đã phát hiện trước đây”. Với những phát hiện mới về “đá kêu” ở Lâm Đồng gần đây, và cùng với lịch sử đàn đá Tây Nguyên, đặc biệt là Nam Tây Nguyên, các nhà khoa học đã bước đầu làm hé lộ dần một nền văn hóa cự thạch (cuối thời kỳ đá mới) của cư dân bản địa Nam Tây Nguyên bởi những giá trị chân xác và khoa học của hiện vật. Đặc biệt, với riêng hai sưu tập đàn đá Sơn Điền và Liên Đầm, sau một thời gian nghiên cứu và thẩm định, các cơ quan chuyên môn và các nhà khoa học chuyên ngành của Việt Nam đã khẳng định đây là hai sưu tập đàn đá cổ có niên đại cách nay trên dưới 2.500 năm.

Hành trình tiến tới báu vật

Xưa nay, khi nhắc đến đàn đá cổ ở Lâm Đồng, người dân và kể cả các phương tiện thông tin đại chúng đều dành cụm từ thật trân trọng cho nó, như: “Đó là những bảo vật của người xưa lưu lại”, “Đó là những báu vật của quốc gia”… Điều này cho thấy, từ trong thẳm sâu của ý thức con người, của xã hội đã nghiễm nhiên công nhận những bộ sưu tập đàn đá cổ của Nam Tây Nguyên là báu vật, hay bảo vật. Tuy nhiên, để những sưu tập đàn đá cổ này (hoặc một vài bộ trong các sưu tập đó) trở thành bảo vật quốc gia đúng nghĩa thì lại là chuyện khác.

Theo quy định mới nhất của Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch, các hiện vật được đề nghị công nhận bảo vật quốc gia là hiện vật nguyên bản, và là tiêu bản duy nhất thuộc một hay nhiều tiêu chí về hình dáng, kích thước, chất liệu, hoa văn trang trí, kỹ thuật chế tác, phương thức sử dụng, nội dung; là hiện vật có hình thức độc đáo, đặc biệt, khác lạ so với những tiêu bản khác; là hiện vật có giá trị đặc biệt liên quan đến một sự kiện trọng đại của đất nước, hoặc liên quan đến sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân tiêu biểu…

Có thể nói, bản thân những thanh “đá kêu” (lú goòng, theo tiếng người dân tộc thiểu số) được phát hiện từ trước đến nay ở Lâm Đồng luôn không tách rời giá trị nguồn cội của lịch sử một vùng đất – vùng đất nằm ở phía tận cùng phía Nam của dãy Trường Sơn. Những sưu tập đàn đá ấy của Lâm Đồng không những chỉ thể hiện rõ bản sắc văn hóa tộc người, mà còn là minh chứng cho một giai đoạn bình minh lịch sử (niên đại trên dưới 3.000 năm) của các tộc người chủ nhân Nam Tây Nguyên.

Dĩ nhiên, với các sưu tập “đá kêu” Nam Tây Nguyên, việc nghiên cứu vẫn đang còn tiếp tục thực hiện ở nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực khác nhau như khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học, âm nhạc học, địa chất học… nhưng có lẽ đã đến lúc cơ quan chức năng tỉnh Lâm Đồng, đặc biệt là ngành Văn hóa, cần bắt tay ngay vào việc lập thủ tục để các sưu tập (hoặc một số) đàn đá cổ nói trên được chính thức công nhận là “bảo vật quốc gia”!

Như vậy, chúng ta cũng có quyền hy vọng sau lễ công nhận bộ đàn đá cổ Hòa Nam, dự kiến ngành Văn hóa tỉnh Lâm Đồng sẽ bắt tay vào việc lập trình hồ sơ đề nghị công nhận đàn đá cổ Lâm Đồng là báu vật quốc gia!

Kim Chánh