Bà Trần Thị Nhung khiếu nại 02 nội dung, cụ thể:

UBND huyện Tĩnh Gia ban hành các Quyết định số 6598/QĐ-UBND ngày 01/11/2017, số 6599/QĐ-UBND ngày 01/11/2017, số 6600/QĐ-UBND ngày 01/11/2017, số 2245/QĐ-UBND ngày 13/4/2018 thu hồi đất của gia đình bà theo loại đất “rừng sản xuất” ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất UBND huyện Tĩnh Gia cấp cho gia đình năm 1996 là không đúng.

Bà Trần Thị Nhung đề nghị được bồi thường theo hiện trạng đất đang sử dụng: Đất ở nông thôn, đất nuôi trồng thủy sản, đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm.

Khi trích đo địa chính để phục vụ công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng các thửa đất: Thửa số 01, tờ bản đồ số 01, diện tích 15.189,1 m2, loại đất rừng sản xuất (RSX); thửa số 02, tờ bản đồ số 01, diện tích 55.975,2m2, loại đất rừng sản xuất (RSX); thửa số 03, tờ bản đồ số 01, diện tích 11.771,8m2, loại đất giao thông (DGT); thửa số 08, tờ bản đồ số 01, diện tích 106,6m2, loại đất thủy lợi (DTL); thửa số 10, tờ bản đồ số 01, diện tích 248,5m, loại đất thủy lợi (DTL) là đất gia đình đang sử dụng đã được cấp

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1996. Nhưng trong hồ sơ trích đo khu đất số 01/TĐĐC-2017 phê duyệt ngày 24/01/2017 và chỉnh lý đo bản đồ địa chính số 06/CL-TĐBĐ-2018 ngày 29/01/2018, UBND xã Hải Thượng lại thể hiện chủ sử dụng cho người khác là không đúng.

Khiếu nại của bà Trần Thị Nhung đã được Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia xem xét, giải quyết tại Quyết định số 3167/QĐ-UBND ngày 31/5/2018.

Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia, bà Nhung khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh.

Theo kết luận của cơ quan chức năng tỉnh Thanh Hóa, UBND huyện Tĩnh Gia ban hành các Quyết định số 6598/QĐ-UBND ngày 01/11/2017, số 6599/QĐ-UBND ngày 01/11/2017, số 6600/QĐ-UBND ngày 01/11/2017, số 2245/QĐ-UBND ngày 13/4/2018 thu hồi đất của gia đình bà Trần Thị Nhung theo loại đất “rừng sản xuất” ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho gia đình bà năm 1996 là có cơ sở.

Tuy nhiên, qua xác minh cho thấy: Hộ gia đình bà Trần Thị Nhung đã khai hoang để làm nhà ở, trồng lúa, hoa màu và nuôi trồng thuỷ sản ổn định trên khu đất tìr năm 1991 đến nay và đây là nơi ở duy nhất của gia đình từ năm 1991 đến nay. Hiện trạng thửa đất có nhà ở, trồng cây lâu năm xen kẽ trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản nhưng không xác định được ranh giới cụ thể giữa đất ở và các loại đất nông nghiệp.

Đối với hộ ông Trần Văn Ngọc (con bà Nhung), tự ý làm nhà trên đất lâm nghiệp (của hộ bà Nhung), gia đình ông Ngọc ở ổn định từ năm 2009 đến nay, hiện ông không còn nơi ở nào khác.

Để đảm bảo ổn định đời sống và đỡ thiệt thòi cho công dân, cần xem xét, vận dụng hỗ trợ cho gia đình bà Trần Thị Nhung như các trường hợp tương tự trong khu vực theo Văn bản số 6125/UBND - KTTC ngày 18/12/2008; Van bản số 6877/UBND - KTTC ngày 10/12/2010 và Văn bản số 583/UBND - KTTC ngày 20/01/2015 của UBND tỉnh về việc giải quyết vướng mắc trong giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án tại Khu Kinh tế Nghi Sơn.

Hồ sơ trích đo khu đất số 01/TĐĐC-2017 phê duyệt ngày 24/01/2017 và chỉnh lý đo bản đồ địa chính số 06/CL-TĐBĐ-2018 ngày 29/01/2018, UBND xã Hải Thượng thể hiện đúng chủ sử dụng đất. Bà Trần Thị Nhung khiếu nại là không có cơ sở.

Từ kết quả thẩm tra xác minh, kết luận và các căn cứ pháp luật nêu trên, tại văn bản ký ngày 5/10/2018 bởi Phó Chủ tịch Nguyễn Đức Quyền, lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa đã quyết định khiếu nại của bà Trần Thị Nhung ở thôn Liên Sơn, xã Hải Thượng, huyện Tĩnh Gia là không đủ cơ sở.

Lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa đồng ý vận dụng chính sách hỗ trợ khác cho gia đình bà Trần Thị Nhung như các trường họp tương tự trong việc giải quyết một số vướng mắc về giải phóng mặt bằng các dự án trong Khu Kinh tế Nghi Sơn, cụ thể:

Đối với thửa đất số 13, tờ chỉnh lý trích đo bản đồ số 06/CL-TĐBĐ- 2018 lập ngày 29/01/2018 thuộc tờ bản đồ số 01 của bà Trần Thị Nhung, hiện trạng đất đang có nhà ở (ONT). Do hộ gia đình có khu nhà ở được hình thành (năm l992) trước thời điểm giao đất lâm nghiệp (năm 1996). 

Hỗ trợ khác cho hộ bà Trần Thị Nhung bằng 100% đơn giá đất ở do UBND tỉnh quy định tại thời điểm thu hồi đất đối với diện tích 200m2 (bằng hạn mức đất ở trong khu vực), diện tích còn lại bồi thường theo loại đất được xác định nguồn gốc sử dụng đất (vận dụng tại Mục 2, Văn bản số 6125/UBND-KTTC ngày 18/12/2008; Mục 1, Văn bản số 6877/UBND-KTTC ngày 10/12/2010 của UBND tỉnh về việc giải quyết vướng mắc trong giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án tại Khu Kinh tế Nghi Sơn).

Đối với thửa đất số 05, 06 và 07 của hộ bà Trần Thị Nhung, hỗ trợ bằng 70% giá đất cùng loại thực tế đang sử dụng do UBND tỉnh quy định và hỗ trợ 50% giá trị chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm (75% giá đất cùng loại đang sử dụng). (Vận dụng tương tự Mục 1.2, Mục 1.3, Văn bản số 583/UBND - KTTC ngày 20/01/2015 của UBND tỉnh).

Đối với thửa đất số 12 của hộ ông Trần Văn Ngọc và thửa đất số 08 của hộ ông Trần Văn Long, do hiện trạng đang có nhà ở trên đất, ngoài diện tích nhà ở thì trồng cây lâu năm, xen lẫn cây hàng năm nhưng không xác định được ranh giới sử dụng đất. Mức hỗ trợ bằng 70% giá đất trồng cây hàng năm (BHK) và hỗ trợ bằng 50% giá trị chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm (75% giá đất trồng cây hàng năm).

Trường hợp hộ ông Trần Văn Ngọc do bị phá dỡ hết nhà cửa, không còn nơi ở nào khác được giao 01 suất đất ở tối thiểu (80m2) tại khu tái định cư tập trung có thu tiền sử dụng đất theo giá đất ở tại khu tái định cư. (Vận dụng tương tự tại Mục 1.2, Mục 1.3, Văn bản số 583/UBND - KTTC ngày 20/01/2015 của UBND tỉnh).

Đây là quyết định giải quyết khiếu nại lần hai. Nếu bà Trần Thị Nhung không đồng ý thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Hoa Quế