Ca khúc: Tự hào người làm báo Thanh tra

Theo dõi Báo Thanh tra trên

Chấp hành nghiêm chỉ đạo của Phó Thủ tướng

Thứ hai, 05/09/2011 - 21:10

(Thanh tra)- Mới đây, UBND tỉnh Sóc Trăng đã có báo cáo kết quả giải quyết khiếu nại (KN) của các hộ dân ở Nông trường 30/4 (cũ) gửi Thủ tướng Chính phủ đề nghị chỉ đạo Thanh tra Chính phủ (TTCP) có ý kiến giúp địa phương sớm giải quyết dứt điểm vụ việc KN, tố cáo phức tạp, kéo dài ở Nông trường 30/4. “Cho đến thời điểm hiện nay, UBND tỉnh Sóc Trăng đã chấp hành nghiêm túc ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng tại Thông báo số 70/VPCP-TB, ngày 3/6/2000, Thông báo số 138/VPCP-TB, ngày 16/10/2000 cùng Thông báo số 8572/VPCP-KNTN, ngày 15/12/2009 của Văn phòng Chính phủ về việc giải quyết khiếu tố của một số hộ dân Nông trường 30/4 về vấn đề đất đai, về tài chính, là đúng và đầy đủ”, UBND tỉnh Sóc Trăng khẳng định.

Vụ việc KN của các hộ dân thuộc Nông trường 30/4 (cũ) đã được cơ quan có thẩm quyền của tỉnh Sóc Trăng xem xét, giải quyết. Đặc biệt, năm 2000, đoàn công tác liên ngành của Chính phủ đã thanh tra trực tiếp tại chỗ, có kết luận và báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Sau đó, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý và chỉ đạo UBND tỉnh Sóc Trăng giải quyết khiếu kiện, tố cáo của công dân tại Nông trường 30/4 (cũ) theo Thông báo số 70/VPCP-TB, ngày 3/6/2000; Thông báo số 138/VPCP-TB, ngày 16/10/2000 của Văn phòng Chính phủ. Đây là những văn bản pháp lý mà UBND tỉnh Sóc Trăng phải tổ chức thực hiện.

Năm 2008, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng, TTCP đã chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng địa phương tiến hành kiểm tra việc thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về giải quyết khiếu kiện tại Nông trường 30/4, tỉnh Sóc Trăng. Sau khi kiểm tra, TTCP đã có Báo cáo số 1997/BC-TTCP ngày 26/9/2008 và Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng đã có ý kiến chấp thuận báo cáo, kiến nghị của TTCP theo Văn bản số 8572/VPCP-KNTN, ngày 15/12/2008 của Văn phòng Chính phủ.

Trên cơ sở thực hiện các ý kiến chỉ đạo trên, UBND tỉnh Sóc Trăng đã thực hiện cơ bản các kết luận của T.Ư, cụ thể như sau:

Khái quát về Nông trường 30/4:
Nông trường 30/4 là doanh nghiệp Nhà nước được thành lập từ năm 1976, trên vùng đất cù lao, tiếp giáp với Biển Đông, thuộc địa bàn huyện Long Phú (cũ), nay là huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng.

Trước năm 1976, nơi đây là vùng đất hoang hoá chỉ có một số hộ dân khai hoang đất sản xuất.

Năm 1976, tỉnh Hậu Giang (cũ) đã thành lập Ban Kiến thiết Kinh tế mới trên khu vực đất này. Tuy nhiên, do thiếu vốn đầu tư, thời kỳ đầu cán bộ được phân công quản lý khu kinh tế đã cho dân đến định cư bỏ vốn và công sức để khai hoang sản xuất (là tiền thân của Nông trường 30/4 ngày nay).

Ngày 1/3/1982, Nông trường 30/4 được tổ chức lại theo Quyết định số 36/QĐ.UBT.82 của UBND tỉnh Hậu Giang (cũ), với quy mô diện tích đất được giao là 2.500ha đất tự nhiên.

Ngày 21/11/1986, Nông trường 30/4 được tổ chức lại theo Quyết định số 115/QĐ/UBT.86 của UBND tỉnh Hậu Giang (cũ) để hình thành vùng sản xuất chuyên canh.

Sau khi được tái lập, ngày 3/10/1994, UBND tỉnh Sóc Trăng có Quyết định số 421/QĐ.HC.94 giao cho Nông trường 30/4 quản lý 4.218,07ha diện tích đất tự nhiên. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp là 1.444,73ha, đất lâm nghiệp là 867,77ha, đất bãi bồi để trồng rừng phòng hộ ven biển là 848,85ha, còn lại là đất xây dựng cơ bản và sông rạch.

Quá trình hình thành và hoạt động sản xuất kinh doanh của Nông trường 30/4 theo nguyên tắc tự hạch toán thu chi, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về mặt tài chính và các vấn đề khác. Nhà nước không can thiệp vào quá trình hoạt động của doanh nghiệp.

Do cơ chế, chính sách trong thời kỳ kinh tế tập trung, bao cấp, Nông trường 30/4 đã có những mô hình, hình thức hoạt động có hiệu quả nhất định. Từ năm 1995 trở về trước, mô hình sản xuất giao khoán sản phẩm theo nguyên tắc thoả thuận giữa Nông trường viên và Nông trường đã được đại đa số bà con đồng tình ủng hộ.

Khi chuyển đổi sang mô hình quản lý, sản xuất kinh doanh mới, có nhiều vấn đề cần được chuyển đổi cho phù hợp với tình hình, nhưng Nông trường 30/4 chậm đổi mới cơ chế quản lý sản xuất kinh doanh, vẫn quản lý theo hình thức mệnh lệnh hành chính, thiếu dân chủ, phát sinh nhiều vấn đề bức xúc cho người dân Nông trường, từ đó khiếu kiện phát sinh.

Về đất đai:
Từ năm 2000 - 2007, UBND tỉnh Sóc Trăng đã ra quyết định thu hồi 3.554,92ha đất các loại của Nông trường 30/4 giao cho các tổ chức và cá nhân quản lý, sử dụng. Đồng thời, đã tiến hành giao, cấp đất cho 1.229 hộ dân với diện tích là 1.617ha. Đối tượng được giao, cấp đất gồm: Gia đình thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước, những người không đất hoặc thiếu đất, những hộ là Nông trường viên Nông trường 30/4 trước đây... Phần lớn những hộ trên đã được cấp giấy chứng nhận (GCN) quyền sử dụng đất (QSDĐ) theo nguyên tắc Nhà nước không thu một khoản phí nào và cán bộ xuống tận địa phương làm thủ tục cấp giấy cho dân. 

Đối với các hộ nhận khoán có diện tích lớn hơn hạn điền (3ha) theo kết luận tại Thông báo số 70/VPCP-TB, ngày 3/6/2000 của Văn phòng Chính phủ thì phải thu hồi bớt diện tích để trang trải cho hộ không đất hoặc ít đất để họ sản xuất. Đến nay, UBND tỉnh và UBND huyện Cù Lao Dung cũng không thu hồi được đất của hộ nào mà xem xét giao cấp luôn cho con cái của họ để ổn định sản xuất (do họ xin tách hộ cho con ra ở riêng) theo nguyên tắc vừa không bị xáo trộn manh mún đất đai, vừa tránh được sự KN thắc mắc của các hộ dân.

Về việc cấp GCN QSDĐ: Đến thời điểm này, còn trên 60 hộ chưa được cấp GCN QSDĐ với lý do: Một số hộ không chịu kê khai đăng ký; một số hộ yêu cầu ghi trong GCN QSDĐ là đất gốc của họ chứ không phải do Nhà nước giao; một số hộ đòi trả lại 820kg lúa/ha/năm mà Nông trường đã thu trước khi có Nghị định số 01/CP, ngày 4/1/1995 của Chính phủ.

UBND tỉnh cũng đã giải quyết dứt điểm việc chi trả cho 70 hộ dân có công ngăn mặn, làm đê bao trước khi Nông trường được thành lập với số tiền 370.656.000 đồng.

144 hộ được xác định là có công cùng với Nông trường khai phá đất. Khi Nông trường thực hiện chủ trương liền canh, liền cư, động viên bà con về định cư trong Nông trường. Tuy nhiên, do có đất ở quê nhà, hoặc vì lý do khác bà con không định cư ở Nông trường thì phần đất bà con có công khai phá được giải quyết trả thành quả lao động với mức 5 triệu đồng/ha. Số tiền chi trả cho 144 hộ là 946.750.000 đồng.

Tính đến thời điểm hiện nay, về đất đai, Nhà nước chỉ còn giữ lại 162,8ha đất nuôi trồng thuỷ sản do số hộ dân hợp đồng nuôi trồng thuỷ sản chưa hết hợp đồng. Diện tích đất trồng lúa và màu còn lại 108,08ha làm đất dự phòng khi có phát sinh các đối tượng không đất hoặc quá ít đất sản xuất sẽ giao cấp tiếp cho dân (số đất này hiện nay có 40 hộ dân bao chiếm với diện tích trên 90ha). Còn lại 1.003,11ha đất rừng phòng hộ giao cho Chi cục Kiểm lâm quản lý. Có 663,15ha đất bãi bồi, sông ngòi, kênh rạch chưa có quyết định thu hồi và giao cho đơn vị nào quản lý.
Như vậy, về đất đai, UBND tỉnh Sóc Trăng và UBND huyện Cù Lao Dung đã thực hiện việc giao cấp đất cho các hộ dân sản xuất nhiều hơn so với kết luận tại Thông báo số 70/VPCP-TB, ngày 3/6/2000 của Văn phòng Chính phủ (thực hiện 1.617ha so với yêu cầu 150ha).

Về tài chính:
  - Về chi trả các khoản Nông trường thu sai, gồm:

13 hộ dân được xác định là Nông trường đã thu giữ sản phẩm sai, buộc phải chi trả với số tiền 17.223.000 đồng (theo các Quyết định từ số 15/QĐ.HC.01 đến số 27/QĐ.HC.01, ngày 14/3/2001 của UBND tỉnh).

43 hộ được bồi thường cây trồng trên đê do Nông trường chặt để trồng bạch đàn theo qui hoạch với số tiền 20.771.000 đồng (theo Quyết định số 132/QĐ.HC.01, ngày 28/12/2001 của UBND tỉnh).

680 hộ được hoàn trả phần chênh lệch giá lúa thu quỹ xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn năm 1996 với số tiền 50.675.641 đồng (theo Quyết định số 14/QĐ.HC.01, ngày 14/3/2001 của UBND tỉnh).

- Về phần tính lãi suất chi trả cho các hộ dân theo Thông báo số 138/VPCP-TB, ngày 16/10/2000 của Văn phòng Chính phủ: UBND tỉnh Sóc Trăng đã ra Quyết định số 163/QĐTC-CTUBND, ngày 17/4/2009 về việc thành lập tổ công tác tính lãi suất phát sinh trên các khoản thu sai của Nông trường 30/4 trước đây để bồi hoàn cho các hộ dân. (Tính đến thời điểm năm 2009 có 122 hộ dân yêu cầu đòi tính lãi suất). UBND tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng và tổ công tác tính lãi suất các khoản Nông trường thu sai (từ khi phát sinh thu cho đến nay) theo mức lãi suất bình quân của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quy định hàng năm, công bố tính lãi suất nói trên ra dân. Đã 2 lần tổ công tác của tỉnh xuống tận xã An Thạnh Nam, huyện Cù Lao Dung và mời 122 hộ dân để công bố phương án tính lãi suất nói trên. Tuy nhiên, chỉ có 13 hộ dân đến dự, số còn lại vắng mặt không lý do. Các hộ dân không đồng tình mà họ yêu cầu phải trả lại 820kg lúa/ha/năm đã nộp cho Nông trường và phải tính lãi suất luôn trên số lúa đó theo phương pháp tính lãi kép (lãi nhập vốn, thu từ thời điểm nào thì tính lãi từ thời điểm đó đến nay) và chỉ chấp nhận nộp thuế nông nghiệp hằng năm theo quy định 180kg/ha/năm.

Theo UBND tỉnh Sóc Trăng, yêu cầu trên không thể giải quyết được vì: Tất cả những việc giải quyết của địa phương thời gian qua như: Việc giao cấp đất đai; chi trả các khoản chênh lệch giá lúa; chi trả công khai phá đất đai; bồi thường thiệt hại đê bao... những người khiếu kiện dai dẳng đều phủ nhận và luôn đề cập đến 820kg lúa mà họ đã thoả thuận với Nông trường trước khi có Nghị định số 01/CP, ngày 4/1/1995 của Chính phủ và lấy chiêu bài chống tham nhũng, tiêu cực, vấn đề xử lý cán bộ ở Nông trường... (là những nội dung tỉnh đã chỉ đạo kiểm tra, xem xét, kết luận cụ thể) để yêu sách... Thực chất, yêu cầu “tính lãi suất” chỉ là cái cớ để họ kéo dài việc khiếu kiện theo sự cầm đầu, kích động của một số người...

Tiếp tục đối chiếu, tính lãi cho các hộ dân
Ngày 28/10/2010, Văn phòng UBND tỉnh Sóc Trăng nhận được đơn của ông Phạm Văn Bé và 100 hộ dân Nông trường 30/4 (cũ) KN yêu cầu đòi lại đất gốc khai phá trước năm 1986 trở về trước và chi trả lãi trên các khoản thu Nông trường 30/4 (cũ) đã thu sai.

Ngày 9/11/2010, Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng ban hành Công văn số 129/CTUBND-KN giao Thanh tra tỉnh phối hợp các ngành chức năng và UBND huyện Cù Lao Dung tiếp tục đối chiếu, tính lãi cho các hộ dân.

Trên cơ sở đó, các cơ quan chức năng đã thành lập đoàn công tác và làm việc với từng hộ dân KN, thực hiện đối chiếu tính lãi. Kết quả, có 3 hộ (hộ Phạm Văn Buội, Tăng Văn Dương, Lâm Văn Đức) đồng ý tính lãi theo phương pháp tính và lãi suất mà đoàn công tác đưa ra. Trên cơ sở đó, Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng đã ban hành Quyết định số 25/QĐKN-CTUBND ngày 21/3/2011 về việc chi trả vốn, lãi cho 3 hộ trên (do số tiền chi trả trước đây, các hộ chưa nhận).

Thực hiện Kế hoạch số 319/KH-TTCP ngày 21/3/2011 của TTCP, Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng đã ban hành Thông báo số 05/TB-CTUBND về việc chấm dứt tiếp nhận đơn, xem xét, giải quyết KN của 84 hộ dân Nông trường 30/4 (cũ). Trong đó:

- 82 hộ dân không đồng ý đối chiếu tính lãi trên số tiền chênh lệch đã được xác định theo Quyết định số 72/QĐ.GQKT, ngày 7/11/2000 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc thoái trả tiền chênh lệch khoản thu khoán năm 1999 và thu hồi nợ khoán năm 1999 của các hộ Nông trường viên 30/4; Quyết định số 73/QĐ.GQKT, ngày 7/11/2000 của Chủ tịch UBND tỉnh về chi trả chênh lệch giá lúa Khao Dawk Mali, chi trả phần chênh lệch mức khoán giữa số thu thực tế của Nông trường (1.000kg lúa/ha/năm) so với mức khoán được UBND tỉnh cho phép áp dụng đối với các hạng đất khoán. Thời gian tính chênh lệch từ năm 1995 - 1999, cộng với khoản chênh lệch giữa giá lúa Khao Dawk Mali và lúa thường mà Nông trường thu khoán của dân từ năm 1994 - 1997, thu hồi khoản nợ khoán từ năm 1995 - 1998 của các hộ Nông trường viên 30/4 và Quyết định số 14/QĐ.GQKT, ngày 14/3/2001 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc chênh lệch giá lúa thu quỹ xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Các hộ dân trên yêu cầu đối chiếu từ năm 1988 - 1999 vì cho rằng, những năm này, Nông trường 30/4 (cũ) thu 1.000kg lúa/ha/năm là sai, phải trả lại cho dân 820kg lúa/ha/năm.  

 Đến cuối năm 2009, đã có 978 hộ ký nhận với số tiền 4.130.083.858 đồng. Còn lại 258 hộ chưa ký nhận với số tiền 1.108.801.355 đồng. Các hộ chưa ký nhận có 117 hộ, các hộ vẫn còn tiếp tục KN đòi trả chênh lệch khoán là 820 kg/ha (chỉ chấp nhận nộp thuế SDĐ nông nghiệp 180 kg/ha). Số hộ còn lại biết số nợ Nông trường cao hơn số được nhận nên không đến đối chiếu để thanh toán.

Căn cứ Điều 26, 27, 28 Nghị định số 169-HĐBT, ngày 14/11/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), ban hành về cơ chế quản lý kinh tế các cơ sở quốc doanh sản xuất nông nghiệp, việc Nông trường 30/4 (cũ) quy định mức khoán 1.000kg lúa/ha/năm cho giai đoạn trước năm 1995 là phù hợp, đó là quyền tự chủ của doanh nghiệp Nhà nước. Do đó, yêu cầu của 82 hộ dân về nội dung này là không có cơ sở. Nội dung KN này đã được cấp tỉnh và T.Ư giải quyết nhiều lần theo hướng khẳng định yêu cầu của các hộ dân trên là không có cơ sở xem xét, yêu cầu không đúng quy định của pháp luật.

- Có 2 hộ dân không yêu cầu đối chiếu. Họ yêu cầu giải quyết trả lại đất gốc do trước đây Nông trường 30/4 (cũ) thu hồi. Nội dung này đã được Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng giải quyết bác đơn của hộ ông Đặng Văn Năng (tại Quyết định số 09/QĐ.GQKT.01, ngày 9/3/2001 và Quyết định số 30/QĐ.GQKT.03, ngày 17/4/2002) và hộ ông Nguyễn Văn Đặng (Quyết định số 09/QĐ.GQKT.01, ngày 9/3/2001 và Quyết định số 119/QĐ.GQKT.01, ngày 6/12/2001).

Tuy vậy, cho đến nay, vẫn còn một số hộ khiếu kiện ở Nông trường 30/4 (cũ) không đồng tình với cách giải quyết của tỉnh Sóc Trăng, của TTCP, kết luận của Thủ tướng Chính phủ cũng như việc xử lý của các cơ quan tư pháp. Những hộ này phủ nhận kết quả giải quyết vừa qua trên tất cả các nội dung và đặt ra nhiều lý lẽ, yêu sách không thể chấp nhận được. Đặc biệt, một số người cầm đầu, kích động người khiếu kiện tự nhận là “đại diện cho dân Nông trường bị áp bức” có những thái độ, lời lẽ mang tính chất kích động, chống đối lại chủ trương giải quyết vừa qua của các cấp.

“Cho đến thời điểm hiện nay, UBND tỉnh Sóc Trăng đã chấp hành nghiêm túc ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng tại Thông báo số 70/VPCP-TB, ngày 3/6/2000, Thông báo số 138/VPCP-TB, ngày 16/10/2000 cùng Thông báo số 8572/VPCP-KNTN, ngày 15/12/2009 của Văn phòng Chính phủ về việc giải quyết khiếu tố của một số hộ dân Nông trường 30/4 về vấn đề đất đai, về tài chính, là đúng và đầy đủ”, UBND tỉnh Sóc Trăng khẳng định.

Hạ Vy - Tuấn Tú

Ý kiến bình luận:

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.

Hiện chưa có bình luận nào, hãy trở thành người đầu tiên bình luận cho bài biết này!

Tin cùng chuyên mục

Hậu Giang: Qua thanh tra phát hiện sai phạm hơn 2,6 tỷ đồng

Hậu Giang: Qua thanh tra phát hiện sai phạm hơn 2,6 tỷ đồng

(Thanh tra) - Năm 2024, công tác thanh tra trên địa bàn tỉnh Hậu Giang luôn được các cấp, ngành quan tâm chỉ đạo sâu sát. Các cuộc thanh tra, kiểm tra được triển khai thực hiện theo quy định, nội dung thanh tra có trọng tâm, trọng điểm.

Thu Huyền

21:00 14/12/2024

Tin mới nhất

Xem thêm