Sau hai ngày thảo luận, chiều nay (19/11), Hội thảo Khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 13 với chủ đề "Nhìn lại quá khứ vì một tương lai tươi sáng hơn" đã bế mạc tại Hà Nội.

Từ xây dựng lòng tin, kiểm soát

Điểm nhấn trong hội thảo năm này là sự tham gia của nhiều chính khách từ Vương quốc Anh, Australia, Ấn Độ, Indonesia và Liên minh châu Âu (EU) với những phát biểu dẫn đề quan trọng ở các phiên đặc biệt của hội thảo.

Năm nay cũng là lần đầu tiên hội thảo tổ chức các phiên bình luận theo dòng sự kiện với sự tham gia của các chuyên gia hàng đầu về Biển Đông và quan hệ quốc tế của Việt Nam.

Các chuyên gia nhận định trong bối cảnh quan hệ quốc tế có những bất ổn khó lường do hậu quả của đại dịch và cạnh tranh nước lớn, thời gian qua tình hình tại Biển Đông và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp và thu hút sự quan tâm của dư luận với sự gia tăng của hành vi đơn phương trên biển, xu hướng quân sự hoá, sử dụng các lực lượng bán quân sự, xu hướng tập hợp lực lượng trong khu vực (QUAD, AUKUS) và sự chuyển hướng chiến lược của các nước và tổ chức quốc tế về khu vưc Ấn Độ Dương - Ấn Độ Dương...

Nhiều ý kiến đánh giá cạnh trạnh Mỹ - Trung hiện đang diễn ra phức tạp trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, thương mại, công nghệ và ngoại giao, nhưng nhiều ý kiến tại hội thảo đánh giá khó có thể xảy ra một cuộc chiến tranh lạnh kiểu mới do sự tuỳ thuộc chặt chẽ giữa các quốc gia và nhu cầu chung về phục hồi kinh tế sau đại dịch.

Trong bối cảnh đó, nhiều đại biểu nhấn mạnh tới vai trò của ASEAN, theo đó, ASEAN phải tiếp tục định hướng chính sách rõ ràng để tăng cường lòng tin trong nội khối cũng như khẳng định vai trò trung tâm trong xử lý quan hệ với các nước lớn, quản lý khủng hoảng và thúc đẩy hợp tác trong khu vực.

Giải quyết từng bước tranh chấp

Các học giả tham dự hội thảo đều nhất mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng trật tự trên Biển Đông dựa trên luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982.

Nhiều học giả khẳng định vai trò của phán quyết của Toà Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông năm 2016 trong việc thu hẹp tranh chấp tại Biển Đông và làm rõ cơ sở pháp lý đối với một số vấn đề tại Biển Đông như hoạt động dầu khí, xác định đường cơ sở đối với thực thể trên biển Biển Đông và việc đảm bảo an toàn, an ninh hàng hải tại khu vực.

Trong khi học giả Trung Quốc nhận định rằng UNCLOS còn chưa đầy đủ và còn nhiều điều khoản mập mờ, cần có thêm những dàn xếp khu vực khác để giải quyết các vấn đề cụ thể tại Biển Đông, nhiều học giả cho rằng cuộc tranh luận công hàm giữa các quốc gia về Biển Đông cho thấy đa số các nước ủng hộ việc sử dụng UNCLOS là cơ sở pháp lý toàn diện và duy nhất để xác định các yêu sách biển và thực thi quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc gia.

Từ góc độ lịch sử, các chuyên gia từ Trung Quốc, Anh, Pháp và Việt Nam đã có thảo luận thẳng thắn và thực chất về các sự kiện và bằng chứng lịch sử liên quan đến tranh chấp Biển Đông và ý nghĩa của các dữ kiện lịch sử này với chủ quyền đối với Trường Sa và Hoàng Sa.

Một số dữ kiện lịch sử mới được công bố qua quá trình nghiên cứu tài liệu lưu trữ cho thấy cho tới năm 1899, triều đình phong kiến Trung Quốc vẫn khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc phạm vi quản lý của nước này. Ghi chép của thiền sư nổi tiếng Trung Quốc Xu Shillun khẳng định Trường Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý của Triều Nguyễn.

Đặc biệt, năm 2021 là tròn 70 năm ký kết Hiệp ước Hoà bình San Francisco năm 1951, các học giả đã chia sẻ những nghiên cứu khẳng định hiệp ước không làm thay đổi hay tác động tiêu cực đến chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa.

Để duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông

Đánh giá về tác động của đại dịch Covid-19 đối với vận tải hàng hải nói chung và vận tải hàng hải qua Biển Đông nói riêng, các học giả nhấn mạnh đến nhiều yếu tố gây ra đứt gãy chuỗi cung ứng chi phí tăng cao, thiếu hụt lao động và các quy định về nhập cảnh, dịch tễ.

Các đại biểu cũng thảo luận về những giải pháp để đảm bảo khả năng phục hồi tuyến đường biển trong thời gian tới như tăng độ phủ vắc-xin, thay đổi chính sách đối phó với đại dịch, thống nhất các quy định phòng chống dịch giữa các tổ chức quốc tế, giữa các quốc gia; đơn giản hoá thủ tục; đẩy mạnh chuyển đổi số; tăng cường đối thoại chiến lược giữa các nước để giảm căng thẳng; đảm bảo an toàn, an ninh hàng hải và sự thông suốt trên biển.

Tại đây, các đại biểu cũng chia sẻ tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường biển; theo đó, nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường biển có thể được xem là ưu tiên cấp bách, chìa khoá giải quyết các vấn đề chung ở Biển Đông như đối phó thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và nhu cầu bảo vệ đa dạng sinh học biển.

Hợp tác nghiên cứu khoa học biển còn đối mặt với những hạn chế từ rào cản tiếp cận thông tin dữ liệu, nhiều nước lạm dung khoa học vì mục tiêu chính trị... Do đó, các chuyên gia nhấn mạnh tới tính chất khách quan, công khai của khoa học, đề xuất trong tương lai các quốc gia có thể cởi mở hơn trong chia sẻ dữ liệu, tăng cường các nỗ lực tập thể, xây dựng các khuôn khổ khu vực phù hợp để hướng tới việc đảm bảo một đại dương trong lành và bền vững.

Các học giả cũng thảo luận về xu hướng ngày càng phổ biến và phát triển của công nghệ giám sát, thiết bị giám sát hành trình (VMS) và viễn thám. Việc áp dụng các công nghệ này giúp minh bạch hoá thông tin hoạt động của tàu thuyền góp phần mở ra những khía cạnh mới về môi trường biển và tăng cường nhận thức các vấn đề trên không gian biển, trong đó có Biển Đông.

Qua hai ngày thảo luận thẳng thắn, khoa học, cởi mở và thực chất phong phú và thực chất, các phiên thảo luận đã tập trung vào nhiều vấn đề để rút ra những bài học trong quá khứ từ đó đưa ra những đề xuất hướng tới tương lai tươi sáng hơn tại Biển Đông.

Thanh Thanh